Công chúa nhỏ - Chương 17

CHƯƠNG XVII: ĐÚNG LÀ ĐỨA TRẺ

Ngay
chiều ngày hôm sau, ba thành viên của Gia Đình Lớn đến thăm ông Ấn Độ và đang
cố gắng làm ông vui ngay trong thư phòng của ông. Họ được vào thư phòng vì họ
là khách đặc biệt của ông. Thời gian qua ông đã sống trong tình trạng lơ lửng
và hôm nay đây ông đang vô cùng sốt ruột chờ đợi một sự thật rõ ràng vì ông
Carmichael đã từ Matxcơva trở về sau khi đã phải nấn ná lại lâu hơn hết tuần
này đến tuần khác. Đến nước Nga ông đã phải vất vả lắm mới tìm được dấu vết của
gia đình mà ông cần tìm nhưng họ lại đang đi nghỉ nên ông phải ở lại đó chờ họ
về để gặp cho bằng được. Ông Carisford ngồi trên chiếc ghế ngả ra sau. Janet
ngồi trên sàn ngay cạnh ông. Ông rất yêu Janet. Còn Nora ngồi trên chiếc ghế
đẩu trong khi Donald cưỡi lên cái đầu con hổ trang trí cho chiếc thảm da thú
trả nhà và phi rất mạnh.

“Đừng
làm ồn Donald,” Janet bảo em. “Khi đến thăm người ốm không nên làm họ vui bằng
cái giọng cao chót vót như thế nhé. Có phải ồn quá không bác Carisford?” Janet
nhìn ông hỏi. Ông chỉ xoa vai cô bé cười

“Không
đâu cháu, có vậy mới kéo bác ra hỏi những suy nghĩ ưu phiền được.”

“Cháu
sẽ yên lặng ngay thôi,” Donald nói. “Tất cả chúng ta sẽ trật tự như lũ chuột
nhắt nhé.”

“Chuột
không làm ồn như vậy,” Janet nói. Donald dùng chiếc khăn tay làm dây cương quất
quất vào đầu con hổ.

“Nếu
cả đàn chuột thì chúng sẽ làm ồn như vậy, cả ngàn con chẳng hạn.” Donald vui vẻ
nói.

“Chị
nghĩ là năm mươi ngàn con cũng không làm ồn được đến thế,” Janet nói nghiêm
khắc. “Mà chúng mình lại phải thật yên lặng như chỉ là một con chuột nhắt
thôi.”

Ông Carisford lại xoa vai Janet cười.

“Bố cháu sẽ đến ngay thôi ạ. Chúng mình nói chuyện
về bé gái thất lạc được không ạ?” Janet gợi ý.

“Bác không nghĩ là bác có thể nói gì nhiều vào lúc
này.” Ông Carisford nói, dáng bộ mệt mỏi, đầu cúi xuống.

“Chúng cháu đều rất yêu cô bé ấy và gọi cô bé ấy
là ‘công chúa bé nhỏ có thực’.”

“Tại sao?” Ông người Ấn Độ hỏi lại vì nhiều khi sự
hài hước của Gia Đình Lớn làm ông quên hết mọi chuyện.

“Bởi vì cô bé ấy không phải là tiên. Nó sẽ rất
giàu có một khi được tìm thấy và nó sẽ cảm thấy mình như một công chúa trong
câu chuyện cổ tích vậy. Lần đầu chúng cháu đặt tên cho cô ấy là công chúa thần
tiên nhưng thấy nó không thật hợp nên mới đổi ạ,” Janet giải thích. “Có thật là
bố cô bé đã trao hết cả tiền bạc của mình cho một người bạn để đặt vào mỏ kim
cương rồi người bạn nghĩ ông đã phá sản và bỏ trốn bởi vì ông ấy nghĩ rằng mình
là kẻ ăn cướp không?”

“Nhưng sự thực ông ấy không ăn cướp,” Janet vội vã
chen vào. Ông Carisford vội nắm lấy tay Janet nói: “Không, người bạn đó không
ăn cướp.”

“Cháu thấy tội cho ông ấy,” Janet nói. “Cháu không
thể không thương ông ấy được vì ông ấy không chủ bụng làm như vậy. Ông ấy phải
đau khổ đến vỡ tim mất.”

“Cháu là cô bé biết cảm thông Janet ạ.” Ông Ấn Độ
nói và càng siết chặt tay Janet.

“Chị đã kể cho ông Carisford về ‘cô bé không phải
là ăn xin’ chưa? Chị đã kể cho bác ấy là cô bé đó đã có quần áo mới chưa? Có lẽ
cô bé đó cũng được ai mới tìm ra sau thời gian thất lạc.” Donald sốt sắng hỏi.

“Có tiếng xe đỗ trước cửa! Có lẽ là bố đấy,” Janet
reo lên. Cả ba đứa chạy ùa ra cửa số nhòm xuống.

“Đúng là bố rồi,” Donald tuyên bố. “Nhưng chẳng có
cô bé nào đi cùng bố cả.” Cả ba đứa đều không kiềm chế được lao ngay xuống nhà.
Đó cũng là cách chúng vẫn thường đón bố mỗi lần ông đi đâu về. Chúng nhảy nhót
reo hò vỗ tay và bố nhấc từng đứa một lên để hôn. Ông Carisford cũng cố gắng
đứng dậy nhưng lại ngồi phịch ngay xuống ghế thất vọng nói: “Đúng là đồ bỏ đi,
mình chẳng thể tự làm gì được cả!” Và ông cũng đã nghe thấy tiếng ông
Carmichael ngay ở cửa.

“Thôi các con ra ngoài chơi một lát rồi vào sau
nhé. Bố muốn nói chuyện riêng với bác Carisford một chút. Ra ngoài chơi với Ram
Das.” Nói rồi ông đẩy cửa vào. Trông ông hồng hào, khỏe mạnh hơn trước nhưng
cặp mắt buồn rầu, lo lắng khi bắt gặp cái nhìn đầy lo âu và chứa đựng biết bao
nhiêu câu hỏi của ông Carisford khi hai người bắt tay nhau.

“Có tin gì về đứa trẻ mà gia đình người Nga đó
nhận làm con nuôi không?” Ông Carisford hỏi.

“Có, nhưng nó lại không phải là đứa trẻ mà chúng
ta đang tìm kiếm,” ông Carmichael trả lời. “Nó bé hơn đứa con gái của thuyền
trưởng Crewe nhiều và tên nó lại là Emely Carew. Tôi đã gặp và trò chuyện với
con bé, cặp vợ chồng đó vẫn còn đầy đủ giấy tờ và có thể cung cấp mọi chi tiết
về đứa trẻ.”

Nghe đến đó ông Carisford trông càng thảm hại hơn,
tay ông rũ ra tuột khỏi tay ông Carmichael. Ông nói:

“Thế có nghĩ là cuộc tìm kiếm lại phải bắt đầu lại
từ đầu. Thế là hết. Ngồi xuống đi.”

Ông Carmichael ngồi xuống ghế. Chừng mực nào đó
ông bắt đầu cảm thấy yêu mến và thương xót con người đau khổ này. Là con người
mạnh khỏe, xung quanh đầy những niềm vui, hạnh phúc và tình yêu nên ông rất
thông cảm với sự cô đơn và tình trạng ốm yếu, đau khổ của ông Carisford. Ông
yếu đến nỗi không thể chịu nổi sự ồn ào hay một tiếng nói to thế nhưng lại bị
dằn vặt bởi ý nghĩ là chính mình đã đẩy con bé đến tình trạng cùng khổ rồi lại
bỏ rơi nó.

“Lại đây, lại ngay đây,” ông Carisford bỗng nhiên
phấn chấn hơn. “Chúng mình phải bắt đầu ngay lập tức không được để phí một chút
thời gian nào nữa cả. Ông đã có chút gợi ý nào chưa, một chút thôi cũng được?”
Ông Carmichael sốt sắng đứng bật dậy nhìn xung quanh phòng nghĩ ngợi nhưng chưa
có kế hoạch gì cụ thể cả.

“Tôi không biết có đáng làm hay không nhưng khi
ngồi trên tàu từ Dove về tôi nảy ra một ý kiến và tôi đã suy nghĩ rất nhiều.”

“Anh định làm gì? Nếu con bé còn sống thì chắc nó
phải đang ở đâu đó.”

“Đúng vậy, nó đang ở đâu đó. Chúng ta đã tìm kiếm
rất nhiều ở Paris rồi. Hãy dừng cuộc tìm kiếm ở Paris và bắt đầu ngay tại Luân
Đôn. Đó là đề nghị của tôi. Hãy tìm ngay tại Luân Đôn.”

“Ở đây có bao nhiêu trường,” Ông Carisford nói rồi
như nhớ ra điều gì ông hơi giật mình nhổm dậy nói tiếp: “Ở ngay bên cạnh đây
cũng có một trường.”

“Thế thì chúng ta sẽ bắt đầu từ trường bên cạnh
trước.” Ông Carmichaes nói.

“Không!” Ông Carisford phản đối. “Bên đó cũng có
một đứa trẻ làm tôi phải chú ý nhưng nó lại không phải là học sinh. Trông nó
đen đủi rách rưới không giống như đứa con gái của Crewe xấu số nào cả.”

Có lẽ Phép Mầu Nhiệm lại linh ứng và can thiệp rất
đúng lúc. Phép Mầu Nhiệm tuyệt vời đã sắp xếp mọi chuyện như vậy. Không hiểu
điều gì đã làm cho Ram Das có đủ can đảm vào phòng ngay khi ông chủ đang nói
chuyện. Ông ta kính cẩn chào nhưng không giấu nổi vẻ phấn khởi trên khuôn mặt
đen sạm, mắt sáng rực. “Thưa ngài,” Ram Das dè dặt nói. “Đứa bé tự đến ạ - đứa
bé mà ông cưu mang ấy ạ. Cô bé mang trả con khỉ, nó đã hai lần lẻn sang phòng
cô bé. Tôi đã nói cô bé đợi vì nghĩ có khi gặp con bé hay nói chuyện với nó
cũng làm cho ngài nguôi ngoai đôi chút ạ.”

“Đứa trẻ đó là ai?” Ông Carmichael hỏi.

“Chúa mới biết được,” Ông Carisford buồn rầu nói.
“Nó là đứa bé mà tôi đang nói đến đấy. Một đứa hầu trong trường bên cạnh đây.”

“Ừ, tôi cũng muốn gặp con bé, dắt nó vào đây.” Ông
Carisford ra hiệu cho Ram Das rồi quay lại giải thích cho ông Carmichael.

“Trong lúc ông đi vắng, tôi hoàn toàn tuyệt vọng.
Ngày thật ảm đạm và dài lê thê. Ram Das đã kể cho tôi nghe những cực nhọc mà
con bé phải chịu đựng và cả hai chúng tôi cùng nghĩ ra một kế hoạch để giúp con
bé. Một kế hoạch hay hay, rất trẻ con nhưng cũng để cho tôi có việc gì mà làm.
Phải nói là không có sự giúp đỡ của con người có đôi chân thiên thần như Ram
Das thì kế hoạch của chúng tôi không thể nào thực hiện được.”

Sara ôm con khỉ bước vào, nó rõ ràng là không muốn
rời em nếu có thể. Nó cứ bấu lấy em và líu ríu nói. Sara thấy rất vui khi ở
trong phòng của người Ấn Độ, hai má em ửng hồng.

“Con khỉ của bác lại bỏ trốn lần nữa, cháu thấy nó
ở cửa sổ trên mái nhà cháu và cháu đã mang nó vào vì thấy bên ngoài lạnh quá ạ.
Cháu định mang trả bác ngay nhưng lúc đó quá muộn rồi, cháu nghĩ bác mệt và
không muốn bị làm phiền vào lúc nửa đêm ạ.” Cặp mắt sâu hoắm của người đàn ông
Ấn Độ nhìn em tò mò trìu mến nói: “Cháu biết nghĩ vậy là rất tốt.” Sara nhìn
Ram Das đang đứng ngay gần đó rồi hỏi “Cháu đưa nó cho ông thủy thủ người Ấn
này có được không ạ?”

“Làm sao cháu biết ông ấy là thủy thủ Ấn Độ?”
Người đàn ông Ấn Độ cười và hỏi lại.

“Có, cháu biết ạ.” Sara vừa nói vừa miễn cưỡng
trao con khỉ cho Ram Das. “Cháu biết vì cháu sinh ra ở Ấn Độ ạ.”

Nghe vậy người đàn ông Ấn Độ giật mình, rướn thẳng
người lên làm Sara cũng ngỡ ngàng.

“Cháu sinh ra ở Ấn Độ à? Cháu… có phải…? Cháu lại
đây,” ông nói và chìa tay vẫy Sara lại gần. Sara đến bên ông và đặt tay vào tay
ông như muốn nắm chặt lấy. Em đứng im, cặp mắt xanh xám của em tình cờ bắt gặp
cặp mắt u uất của ông. Chắc ông phải có điều gì đó.

“Cháu sống ở nhà bên cạnh à?” Ông hỏi.

“Vâng ạ, cháu sống ở trường của cô Minchin ạ.”

“Cháu không phải là học sinh phải không?”

Sara lưỡng lự một chút, rồi với nụ cười hơi thấp
thoáng trên miệng, em nói: “Cháu không nghĩ là cháu có thể nói chính xác cháu
là gì cả.”

“Tại sao lại không?”

“Đầu tiên cháu cũng là học sinh và là một học sinh
nội trú đặc biệt có căn hộ riêng. Còn bây giờ…”

“Cháu đã từng là học sinh! Thế bây giờ cháu là
gì?”

Nụ cười buồn bã lại xuất hiện trên môi, Sara nói:
“Bây giờ cháu ngủ trên phòng áp mái, đối diện với phòng của người rửa chén bát.
Cháu làm bất cứ việc gì người ta sai bảo, chạy việc vặt cho bà đều bếp, dạy bọn
trẻ con học.”

“Hỏi tiếp đi ông Carmichael,” Ông Carisford giục,
rồi lại ngả người vào ghế vẻ mệt mỏi. “Ông hỏi tiếp đi tôi không hỏi được nữa.”
Người bố phúc hậu của Gia Đình Lớn rất có kinh nghiệm gợi chuyện các bé gái.
Sara cảm nhận được điều đó vì ông bắt đầu với cái giọng khích lệ dịu dàng. “Tại
sao con lại dùng từ ‘đầu tiên’ hả con gái?” Ông hỏi.

“Khi cháu mới được bố cháu đưa đến trường.”

“Thế bố cháu đâu rồi?”

“Ông chết rồi,” Sara trả lời buồn bã. “Ông mất hết
tiền nên chẳng để lại được đồng nào cho cháu. Không ai cưu mang cháu hay trả
tiền cho cô Minchin.”

“Ông Carmichael!” Người đàn ông Ấn Độ gần như hét
lên. “Carmichael!”

“Chúng ta không được làm con bé sợ.” Ông
Carmichael nói nhỏ vào tai ông Carisford rồi lại quay ra nói với Sara vẫn với
cái giọng dịu dàng. “Chính vì vậy mà cháu bị đuổi lên phòng áp mái và bị biến
thành người hầu phải không? Đúng vậy không cháu?”

“Không ai cưu mang cháu, không có tiền và cháu
không thuộc về ai cả.”

“Tại sao bố cháu lại mất tất cả gia sản?” Người
đàn ông Ấn Độ hổn hển nói chen vào.

“Ông ấy không tự mình làm mất hết gia tài,” Sara
ngập ngừng nói. “Bố cháu có một người bạn mà ông rất yêu mến và ông ấy cũng rất
quý bố cháu. Chính người bạn đó đã lấy hết số tiền. Bố cháu đã quá tin bạn.”

Người đàn ông Ấn Độ càng thở gấp hơn nói: “Có thể
người bạn đó không cố tình làm vậy mà sự việc đó chỉ là một sai lầm.” Sara
không biết khi em trả lời những câu đó giọng em lạnh lùng tàn nhẫn đến thế nào.
Nếu như em biết được tất cả thì em cũng đã cố nói nhẹ nhàng hơn để ông đỡ đau
lòng.

“Sự chịu đựng đã quá kinh khủng đối với bố cháu và
nó đã giết chết bố.”

“Tên bố cháu là gì?” Người đàn ông Ấn Độ thúc giục.
“Cháu cho bác biết được không?”

“Bố cháu là Ralpha Crewe,” Sara lãnh đạm trả lời
nhưng cảm thấy hơi giật mình. “Thuyền trưởng Crewe. Ông đã chết tại Ấn Độ.”

Khuôn mặt hốc hác của ông Carisford co rúm lại,
Ram Das phải chạy vội đến bên ông chủ.

“Carmichael!” Ông thở hổn hển nói “Chính là đứa bé
rồi - chính là nó đây rồi!”

Lúc đó Sara sợ run lên nghĩ chắc ông Carisford
chết mất khi thấy Ram Das vạch môi ông ra nhỏ mấy giọt thuốc vào miệng. Em nhìn
ông Carmichaed ngơ ngác hỏi: “Cháu là đứa trẻ gì cơ ạ?”

“Ông ấy chính là người bạn của bố cháu. Đừng sợ.
Chúng tôi đã tìm kiếm cháu khắp nơi suốt hai năm nay rồi.”

Sara đặt tay lên trán, miệng run run thì thầm như
đang trong mơ: “Suốt cả thời gian đó cháu vẫn ở ngay trường của cô Minchin. Chỉ
cách có một bức tường.”