Công chúa nhỏ - Chương 10

CHƯƠNG X: NGƯỜI ĐÀN ÔNG ẤN ĐỘ

Thật
nguy hiểm cho Emengade và Lottie khi tiếp tục những chuyến hành hương lên phòng
áp mái. Chúng chẳng bao giờ có thể biết chắc chắn lúc đó Sara có ở trên đó
không và cũng chẳng thể nào biết chắc rằng liệu cô Amelia có đi kiểm tra các
giường vào ban đêm sau khi học sinh đã đi ngủ rồi không. Chính vì vậy chúng ít
khi dám lên trên đó nên cuộc sống của Sara càng cô đơn và xa lạ với thế giới
xung quanh. Mặc dù chẳng có ai để trò chuyện và khi bị sai đi ra ngoài làm
những việc vặt, cái thân hình bé nhỏ đáng thương ấy bước đi xiêu vẹo trên đường
phố với một giỏ trên vai, một tay cố giữ cho chiếc mũ khỏi bay đi mỗi khi trời
nổi gió. Đôi giày ướt sũng mỗi khi trời đổ mưa. Đứng giữa đám đông vội vã chạy
trốn mưa xung quanh mình, em càng thấy cô đơn hơn. Khi còn là công chúa Sara,
ngồi trên chiếc xe độc mã hoặc đi dạo các phố cùng với cô hầu Mariette, Sara
trông thật lộng lẫy, xinh đẹp trong bộ váy áo sang trọng, mọi người đều phải
ngoái lại nhìn. Một đứa bé xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo cẩn thận bao giờ
cũng thu hút sự chú ý của mọi người. Còn những em bé ăn mặc rách rưới, tiều tụy
thì nhan nhản và cũng chẳng đủ xinh đẹp để mọi người phải chú ý đến và bố thí
cho chúng những nụ cười. Giờ đây chẳng ai còn để ý đến Sara nữa khi em vội vã
đi trong đám đông trên các vỉa hè. Sara đang ở cái tuổi lớn rất nhanh, quần áo
của em chỉ vẻn vẹn có mấy bộ tầm thường mà người ta để lại vì không đáng lấy
chứ không phải để cho em. Sara biết rõ rằng trông em lúc này thật kỳ cục, lạ
lùng. Những gì đáng giá của em đều bị người ta tước đoạt mất, những gì còn lại
chắc em phải mặc cho đến khi nào không thể chui vào được nữa mới thôi. Thỉnh
thoảng em đi qua các cửa hàng có cửa sổ sáng trưng, em thường nhìn vào những
căn phòng ấm áp và tự giải trí bằng cách tưởng tượng ra quang cảnh mọi người
ngồi bên cạnh lò sưởi hay bên cạnh bàn trà. Em rất thích được ngắm nhìn bên
trong những căn phòng trước khi các cánh cửa sập xuống. Có rất nhiều gia đình
sống ở khu quảng trường cạnh nhà cô Minchin và em đã làm quen với các gia đình
đó theo cách riêng của mình. Em đặt tên cho gia đình em thích nhất là “Gia Đình
Lớn”. Em gọi như vậy không phải vì tuổi của những người trong nhà đã nhiều mà
vì số người trong gia đình quá nhiều. Tất cả có tới tám đứa trẻ. Cả bố và mẹ
đều mập mạp, má lúc nào cũng đỏ au. Bà ngoại trông cũng đậm đà, hồng hào. Trong
nhà còn có rất nhiều người giúp việc. Lũ trẻ con thường được dẫn ra ngoài chơi,
đi dạo bộ hoặc được ngồi trong những chiếc xe nôi do mẹ và các người hầu đẩy đi
thật thoải mái. Thỉnh thoảng Sara lại nhìn thấy chúng chạy như bay ào ra cửa
đón bố về. Chúng tranh nhau hôn bố và nhảy cỡn lên xung quanh ông và kéo tuột
cả áo khoác của ông, thọc tay vào túi của ông để tìm những gói quà cho mình. Có
khi đi ngang, Sara còn thấy chúng đứng nhìn ra cửa sổ, xô đẩy lẫn nhau, cười
nói ríu rít. Không khí trong Gia Đình Lớn lúc nào cũng vui nhộn đầm ấm. Sara
rất thích ngắm chúng và đặt cho chúng những cái tên riêng mà em nhặt ra từ
những câu chuyện đã đọc. Em còn đặt cho họ một cái tên chung là Montmorency nếu
như không gọi chung là Gia Đình Lớn. Đứa bé tóc vàng với chiếc mũ lưỡi trai
được gọi là Ethelberrta Beauchamp Montmorency, bé tiếp theo là Violet
Cholmondeley Montmorency, cậu bé con, mới chỉ biết đi lẫm chẫm và có cặp giò
mũm mĩm được Sara đặt cho cái tên là Sydney Cecil Vivan Montmorency, rồi đến
Lilian Evangeline Maud Marion, Rosalind Gladdys, Guy Clarence, Veronica
Eustacia và cuối cùng là Claude Harold Hector.

Câu
chuyện buồn cười và rất ấn tường đối với Sara xảy ra vào một buổi tối. Cũng có
thể nó chẳng buồn cười tý nào và cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với người khác.
Hôm đó tất cả lũ trẻ Montmorency đều đi dự tiệc dành cho trẻ em trước lễ Giáng
Sinh. Đúng lúc Sara đi ngang qua cửa nhà “Gia Đình Lớn” thì lũ trẻ cũng đang ùa
ra để lên cỗ xe đang đợi sẵn dưới đường. Veronica Eustacia và Rosalind Gladdys
trong bộ váy trắng duyên dáng đáng yêu đã ngồi sẵn trong xe, còn cậu bé
Clarence trạc năm tuổi đang lũn tũn chạy theo. Cậu bé thật dễ thương với đôi má
trái đào, cặp mắt xanh biếc, cái đầu tròn vo cùng những lọn tóc quăn ngộ
nghĩnh. Sara mải ngắm lũ nhỏ đến nỗi quên cả ngoại hình xấu xí của mình với
chiếc áo khoác ngoài cũ kỹ và chiếc giỏ trên tay, hay nói đúng hơn là quên tất
cả mọi thứ mà chỉ đứng sững ra nhìn chằm chặp vào cậu bé. Em dừng hẳn lại đứng
nhìn hồi lâu. Vào dịp lễ Giáng Sinh, lũ trẻ trong Gia Đình Lớn đã nghe rất
nhiều chuyện về những đứa trẻ khốn khổ không cha không mẹ, để cho chúng những
món quà nho nhỏ vào những chiếc tất của chúng hoặc đưa chúng đi xem những vở
kịch câm. Những đứa trẻ đó bao giờ cũng được mô tả là xanh xao, gầy guộc và đói
khát. Trong những câu chuyện như vậy thường thì những người tốt bụng, kể cả
những em bé với trái tim đôn hậu khi gặp những đứa trẻ nghèo như vậy thường cho
chúng tiền, những món quà giá trị hoặc đưa chúng về nhà thết chúng một bữa
thịnh soạn. Ngay lúc chiều thôi, Guy Clarence đã bị xúc động đến chảy nước mắt
vì đọc một câu chuyện tương tự và cậu quyết chí phải tìm được một bạn nhỏ như
vậy để cho bằng được đồng sáu xu mà cậu đang có. Với ý nghĩ thơ ngây cậu cho
rằng đồng sáu xu của mình sẽ giúp được người bạn nghèo đó cả đời và được sở hữu
một đồng sáu xu đã có thể cho là giàu có hoặc còn hơn thế nữa. Khi Rosalind
Gladdys trèo lên xe, ngồi phịch xuống để cảm nhận được độ êm của chiếc đệm lò
xo của chiếc ghế đang nhún nhảy dưới mông thì cũng là lúc cậu bé Guy Clarence
đang đi trên tấm thảm đỏ trải từ trong nhà ra nơi đỗ xe với đồng sáu xu trong
túi, thấy Sara đứng trên vỉa hè quần áo ướt át, tiều tụy với chiếc giỏ trên vai
đang nhìn cậu có vẻ đói khát.

Cậu
bé nghĩ ngay là cặp mắt đói khát như vậy thì chắc chắn đã lâu lắm rồi Sara chưa
có gì ăn. Cậu làm sao có thể hiểu được là Sara đang khao khát sự ấm cúng tươi
vui của một mái nhà, khao khát sự tươi vui toát ra từ khuôn mặt thơ ngây ngộ
nghĩnh của chính cậu. Sara ước được ôm lấy cậu vào lòng mà hôn hít như đứa em
trai của mình vậy. Cậu bé chỉ đơn giản hiểu sự nghèo đói của Sara qua cặp mắt
to, vẻ xanh gầy cùng đôi chân khẳng khiu, và quần áo rách rưới của em và ngay
lập tức thò tay vào túi, cậu bé móc ra đồng sáu xu và tiến lại gần Sara với vẻ
nhân từ và hào hiệp.

“Hãy
nhận lấy đi cô gái tội nghiệp.” Cậu bé nói và chìa đồng sáu xu ra. “Đây là đồng
sáu xu, tôi tặng chị đấy.”

Sara
hơi ngỡ ngàng và ngay lập tức cô nhận ra trông cô giống hệt những đứa trẻ nghèo
khốn khổ mà chính mình đã từng nhìn thấy trong những ngày còn sống trong cảnh
nhung lụa. Chúng cũng đứng trên vỉa hè nhìn Sara ngưỡng mộ mỗi khi em bước lên
cỗ xe của mình. Và chính em cũng đã từng nhiều lần cho những đứa trẻ khốn khổ
đó những đồng xu của mình. Sara thật bối rối, mặt đỏ bừng rồi lại tái nhợt,
trong giây lát em nghĩ mình không thể nhận được đồng sáu xu của cậu bé đó.

“Ôi,
không, không đâu!” Sara nói. “Tôi không nhận được đâu, xin cám ơn.”

Giọng
nói của em hoàn toàn khác với cách cư xử của những đứa trẻ lang thang bình
thường khác trên đường phố và dáng điệu cử chỉ của em giống hệt của những đứa
trẻ được chăm sóc giáo dục cẩn thận đến nỗi Veronica Eustacia mà tên thật là
Janet và Rosalind Gladdys tên thật là Nora phải ngoái cổ ra để nghe.

Nhưng
Guy Clarence không dễ gì từ bỏ lòng nhân từ của mình, cậu dúi ngay đồng xu vào
tay Sara.

“Chị
phải nhận lấy đi, cô gái tội nghiệp ạ.” Cậu bé khẩn khoản nài nỉ. “Chỉ có thể
mua cái gì đó để ăn, những sáu xu cơ mà!”

Giọng
nói và gương mặt cậu bé thánh thiện và chân thành đến nỗi cuối cùng Sara cũng
không thể từ chối được nữa vì sợ làm tổn thương đến trái tim nhân hậu đó. Sara
hiểu rằng nếu em quá tự cao không nhận đồng sáu xu đó sẽ là một hành động rất
tàn nhẫn đối với cậu bé ngây thơ kia và cuối cùng em đã phải cất lòng tự trọng
vào túi để nhận đồng xu từ tay cậu mà hai má nóng ran vì xấu hổ.

“Cảm
ơn nhiều,” Sara nói. “Em mới thật đáng yêu làm sao.” Khi cậu bé trèo lên xe vui
vẻ rồi Sara vội bỏ đi ngay, cố gượng cười mặc dù hai mắt cay xè, thở hổn hển.
Sara rất hiểu rằng trông mình thật kỳ quặc và tiều tụy nhưng cho đến tận lúc đó
em vẫn không nghĩ rằng người ta lại có thể nghĩ em là một kẻ ăn xin.

Cỗ
xe của Gia Đình Lớn chuyển bánh trong tiếng nói cười ríu rít đầy mãn nguyện của
lũ trẻ.

“Donald
này,” (Donald là tên thật của Guy Clarence) Janet bật hỏi. “Tại sao em lại cho
cô bé đó đồng sáu xu của mình? Chị dám chắc cô bé đó không phải là người ăn
xin!”

“Cách
nói, nét mặt và điệu bộ của cô ấy đều không giống kẻ ăn xin chút nào cả!” Nora
nhận xét. “Hơn nữa cô ấy có xin đâu.” Nora phụ họa. “Chị sợ rằng cô ấy sẽ trách
em đó. Người ta sẽ phật lòng khi bị coi là kẻ ăn xin nếu như họ không phải như
vậy.”

“Cô
ấy có khó chịu đâu.” Donald phản ứng quả quyết. “Cô ấy còn cười một chút và còn
khen em là cậu bé tốt bụng, đáng yêu nữa mà. Đúng là em tốt bụng mà, em đã cho
cô ấy tất cả sáu xu mà em có được.”

Janet
nhìn Nora và khẳng định: “Một đứa ăn xin chẳng thể nào nói được những lời như
vậy, chắc chắn nếu là kẻ bần hàn cô bé ấy sẽ nói cám ơn một cách vội vàng và
nhận ngay lấy đồng xu đó.”

Sara
chẳng hiểu những gì xảy ra sau khi em đi khỏi nhưng từ đó trở đi Gia Đình Lớn
ngày càng trở nên gần gũi gắn bó với em hơn cứ như em là một thành viên trong
gia đình đó vậy. Hàng ngày mỗi khi đi ngang qua em luôn nhìn thấy những khuôn
mặt đáng yêu qua cửa sổ và ngược lại trong Gia Đình Lớn cũng luôn xảy ra những
cuộc bàn cãi về Sara khi cả nhà ngồi quây quần quanh lò sưởi.

Một
hôm Janet phỏng đoán: “Hình như cô ấy là người giúp việc tại trường dòng. Cô ấy
chắc mồ côi và chẳng thuộc về ai cả nhưng chắc chắn không phải là người ăn xin
mặc dù trông cô ấy rất rách rưới.” Thế rồi bầy trẻ quyết định gọi Sara là “cô
gái nhỏ không phải là người ăn xin”. Cái tên thật dài dòng và có vẻ buồn cười,
nhất là khi đứa em út nói một cách vội vàng ngọng nghịu.

Sara
luồn sợi dây vải đã cũ qua cái lỗ của đồng xu và đeo vào cổ, tình cảm của em
đối với Gia Đình Lớn cũng như những gì xung quanh mà em có thể yêu đều tăng
lên. Càng ngày em càng cảm thấy thương yêu Becky nhiều hơn và em cũng rất mong
đợi những giờ học tiếng Pháp vào hai buổi sáng trong tuần khi đó em có thể gặp
được lũ trẻ nhỏ và dạy chúng học. Tất cả những học sinh nhỏ của Sara đều rất
quý mến em, tranh nhau đứng cạnh để luồn bàn tay nhỏ xíu của mình vào bàn tay
khẳng khiu của Sara.

Điều
đó cũng an ủi trái tim khát khao tình cảm của Sara phần nào và em cảm thấy như
chúng gửi gắm niềm tin và muốn ẩn náu nơi mình. Sara cũng trở nên gần gũi vời
bầy chim sẻ đến nỗi mỗi khi em đứng lên trên bàn thò đầu ra ngoài gọi thì ngay
lập tức lũ chim vỗ cánh, rào rào bay lại cùng với tiếng đáp ríu rít của chúng.
Thế là chúng ào tới, cả bầy sinh vật nhỏ bé vui sướng trò chuyện với Sara và
lượm những mẩu bánh em vãi ra. Còn Melchisedec thì quá thân thiện với Sara nên
thỉnh thoảng còn mang theo cả vợ hoặc một hai đứa con đi theo. Sara hay trò
chuyện cùng Melchisedec và ở góc độ nào đó nó có vẻ như hiểu hết những điều
Sara nói.

Sara
dành một tình cảm đặc biệt đối với Emily, con búp bê duy nhất em còn giữ lại
được. Thế nhưng lúc nào nó cũng chỉ có ngồi im lặng nhìn mọi việc xảy ra xung
quanh mình. Tình cảm đó trỗi dậy mỗi khi em thấy tuyệt vọng. Sara rất muốn tin
rằng hay cố tin rằng người bạn đồng hành duy nhất của mình nhất định phải hiểu
và thông cảm với mình chứ không phải chỉ là con búp bê vô tri vô giác. Sara
thường hay đặt Emily vào ghế rồi ngồi đối diện để tưởng tượng ra bao điều nhất
là vào buổi tối khi mọi vật đã chìm vào màn đêm tĩnh lặng, thỉnh thoảng mới
nghe thấy tiếng sột soạt và tiếng kêu chít chít của gia đình Melchisedec vọng
ra từ trong tường. Trong sự tưởng tượng của mình Sara coi Emily như là một phù
thủy tốt bụng có thể bảo vệ được mình. Thỉnh thoảng sau khi ngồi nhìn chằm chặp
vào Emily rất lâu với biết bao suy nghĩ trong đầu, có thể nói em đã đi đến đỉnh
cao của trí tưởng tượng của mình. Sara nghĩ mình có thể hỏi Emily rất nhiều
điều, thế rồi em đặt ra những câu hỏi, tự trả lời và coi đó là cách trả lời của
Emily. Thực tế Emily chẳng bao giờ có thể trả lời được và Sara lại tìm cách an
ủi chính mình bằng cách nói thay Emily. “Tôi rất ít khi trả lời. Tôi không bao
giờ trả lời nếu như có thể làm như vậy. Khi mọi người chửi mắng bạn thì chẳng
có gì tốt hơn là bạn im lặng nhìn họ và suy nghĩ. Cô Minchin chẳng đã giận tái
đi khi bạn làm như vậy là gì, cả cô Emelia cùng những cô gái khác cũng đã phải
chùn lại vì sợ hãi khi bạn nhìn họ đấy thôi. Khi bạn kiềm chế được cơn thịnh nộ
của mình, người ta sẽ hiểu là bạn mạnh hơn hẳn họ vì bạn có khả năng để nuốt
cơn thịnh nộ vào trong, còn họ thì không và xổ ra những lời nói thô lỗ chẳng
tốt đẹp gì rồi sau đó lại tiếc là giá như mình không nói những điều đó thì tốt
biết bao. Những cơn thịnh nộ thật kinh khủng nhưng cái giúp bạn nuốt được cơn
thịnh nộ đó còn mạnh hơn nhiều. Tốt nhất là chẳng nên trả lời hay đếm xỉa gì
đến những người ghét bỏ mình. Mình đã chẳng bao giờ đáp lại cả mặc cho họ mắng
chửi mình thậm tệ. Có lẽ Emily giống mình hơn là mình giống chính bản thân mình
thì phải. Có lẽ nguyên tắc của nó là chẳng bao giờ đáp lại ai kể cả bạn bè của
nó mà nó đã cất giấu tất cả vào trái tim của nó rồi.”

Mặc
dù Sara đang cố an ủi mình bằng những lập luận đó nhưng em cũng chẳng cảm thấy
dễ chịu hơn chút nào. Có những khi sau một ngày dài lê thê với những công việc
nặng nhọc, rồi lại bị sai đi hết nơi này đến nơi khác với đủ loại việc lặt vặt
kể cả trong những ngay mưa dầm gió bấc, vừa về đến nhà, ướt như chuột lột vừa
đói vừa rét, em lại bị sai đi ngay đến một chỗ khác. Chẳng ai còn nhớ rằng em
vẫn còn là đứa trẻ và đôi chân khẳng khiu của em cũng biết mệt mỏi, cũng như
tấm thân nhỏ nhoi của em cũng biết thấm lạnh đến thấu xương chứ. Thế nhưng em
chỉ nhận được những lời mắng chửi và những cái nhìn khinh bỉ thay vì những lời
cám ơn. Mỗi khi người nấu bếp tuôn ra những lời thô tục, xấc xươc; khi cô
Minchin trong cơn thịnh nộ nhất hay khi các cô gái nhạo báng Sara về sự khốn
cùng của mình mà em không tự an ủi hay làm dịu được nỗi đau nhức nhối cùng niềm
kiêu hãnh của mình bằng trí tưởng tượng thì em cũng chỉ biết tìm sự an ủi từ
Emily, con búp bê lúc nào cũng vẫn ngồi im ngay ngắn trên chiếc ghế cũ kỹ trong
phòng và nhìn em chằm chặp.

Một
buổi tối như bao tối khác, khi Sara lết về căn phòng áp mái, đói và mệt lả với
cơn giận sôi sục trong lồng ngực bé bỏng của mình, em cảm thấy cái nhìn chằm
chặp của Emily thật trống rỗng. Chân tay bằng mùn cưa của Emily thật vô cảm đến
mức Sara không thể kiềm chế nổi bản thân mình nữa. Em chẳng có ai trên cõi đời
này để mà chia sẻ ngoài Emily ra, thế mà nó chỉ biết ngồi im câm lặng.

“Tôi
chết mất,” Sara rền rĩ. Emily vẫn lặng im nhìn, chỉ có vậy thôi.

“Tôi
không thể chịu đựng hơn được nữa.” Cô gái bé bỏng tội nghiệp nói và run lên.

“Tôi
biết tôi sẽ chết. Tôi lạnh, ướt và bị bỏ đói cho đến chết. Hôm nay tôi phải đi
hàng ngàn dặm để làm những việc mà họ sai bảo rồi thế mà tôi vẫn chỉ có nhận
được những lời chửi mắng suốt từ sáng đến tối. Chỉ vì tôi không hoàn thành được
công việc cuối cùng trong ngày là tìm cho bà đầu bếp cài mà bà ta cần thế là họ
đã trừng phạt tôi, không cho tôi ăn bữa tối nữa. Mày biết không ở ngoài đường
thì mọi người cười nhạo tao vì đôi giày mòn vẹt đã làm tao trượt ngã trong đống
bùn, người tao toàn bùn là bùn đây này. Thế mà họ cười được. Mày nghe thấy tao
nói gì không hả Emily?”

Sara
nhìn vào cặp mắt bằng thủy tinh cũng đang nhìn em không chớp mắt và gương mặt
đầy mãn nguyện của Emily và bỗng dưng một sự tuyệt vọng bao trùm lấy em. Đột
nhiên em chộp lấy Emily, hất nó xuống sàn òa lên khóc tức tưởi. Sara chưa từng
khóc như vậy bao giờ. Rồi em kêu lên: “Mày chẳng là gì cả, chỉ là con búp bê vô
tri vô giác, mày chẳng quan tâm đến bất kỳ điều gì. Mày chỉ là con búp bê mùn
cưa, mày chưa bao giờ có trái tim cả. Chẳng có gì làm mày động lòng hết. Mày
chỉ là con búp bê không hơn không kém!”

Emily
nằm lăn trên sàn, chân quặp lên đầu một cách đáng ghét, cái mũi tẹt dí nhưng
vẫn bình thản và đầy cao ngạo, trong khi Sara tuyệt vọng ngồi úp mặt vào cánh
tay. Đám chuột trong tường bắt đầu cắn nhau chí chóe. Melchisedec đang trừng
phạt một vài thành viên trong gia đình.

Những
tiếng nức nở của Sara nguôi dần. Cơn thịnh nộ vừa qua chẳng giống Sara chút nào
và chính em cũng phải ngạc nhiên về sự bùng nổ đó. Hồi sau em ngẩng đầu lên
nhìn Emily, lúc này dường như đang nhìn em, cũng vẫn với cặp mắt thủy tinh
nhưng lần này đượm vẻ cảm thông. Em cúi xuống nhấc Emily lên, mỉm cười đau đớn
vì ân hận.

“Mày
không thể không là búp bê,” Sara thở dài nói. “Tạo hóa không sinh ra chúng mình
giống nhau mà. Có lẽ mày đã làm tốt nhất bổn phận của mày rồi.”

Sara
hôn con búp bê tội nghiệp rồi đặt nó vào chỗ cũ.

Lúc
này đây Sara ước có ai đó đến ở căn nhà bỏ không bên cạnh. Em mong ước điều đó
vì cửa sổ của phòng áp mái đó rất gần nơi em ở. Thật thú vị nếu như được thấy
ai đó nhô đầu ra khỏi cửa sổ hay nói cho đúng hơn là cái ô hình vuông đó.

“Nếu
cái đầu nhô ra đó trông dễ mến, thì mình sẽ bắt đầu bằng một câu chuyện thân
thiện,” Sara nghĩ. “Và có thể biết bao nhiêu điều khác nữa cũng sẽ xảy ra, ai
mà biết được. Nhưng tất nhiên người đó cũng phải là người hầu hạng bét như mình
thì mới ngủ trên phòng áp mái như mình.”

Thế
rồi một buổi sáng khi đã đến cửa hàng tạp hóa, cửa hàng bán thịt và hiệu bánh
về, Sara thật vui mừng khi nhìn thấy một xe chở đầy đồ đạc đỗ trước cửa nhà
hàng xóm bỏ trống lâu nay. Cánh cửa đang mở toang còn những người đàn ông thì
đang khiêng vác đồ đạc vào nhà.

“Thế
là có người đến ở rồi!” Sara nghĩ thầm. “Đúng là họ dọn đến rồi! Tôi hy vọng sẽ
có ai đó nhìn qua cửa sổ phòng áp mái!” Suýt nữa thì em đã hòa vào đám người
đang đứng trên vỉa hè chờ cho đồ đạc khiêng vào. Em nghĩ nếu thấy những đồ đạc
đó em có thể sẽ đoán được người dọn đến ở thuộc hạng người nào.

“Bàn
ghế của cô Minchin cũng thật giống cô ấy,” Em nghĩ. “Mình còn nhớ cả cảm giác
ban đầu khi gặp cô ấy mặc dù khi ấy mình còn rất nhỏ. Mình đã kể cho bố nghe ý
nghĩ ấy và bố chẳng đã cười và nói mình đã nghĩ đúng còn gì. Mình chắc rằng Gia
Đình Lớn có những chiếc ghế bành và sofa thật êm. Mình đã nhìn thấy giấy dán
tường màu hồng, trông thật ấm áp, vui vẻ và đôn hậu giống hệt họ rồi mà.”

Chiều
hôm đó em bị sai đi mua rau và một số gia vị nữa. Khi đi đến bậc cửa ra vào tim
em đập rộn lên khi nhìn thấy những đồ đạc đã được dỡ khỏi xe để trên vỉa hè. Một
bộ bàn ghế bằng gỗ tếch được chạm trỗ thật đẹp và được phủ bằng một chiếc khăn
thêu kiểu Á Đông. Nhìn thấy nó em có một tình cảm rất lạ như cảm giác nhớ nhà
vậy, bởi em đã nhìn thấy những thứ như vậy ở Ấn Độ. Một trong những đồ vật mà
cô Minchin tước đoạt của em là chiếc bàn chạm trỗ bằng gỗ tếch mà bố gửi tặng
em.

“Nhiều
thứ đẹp quá, chắc chúng phải thuộc về những người tốt và mọi thứ đều sang trọng,
chắc họ phải là những người giàu có.” Sara nghĩ.

Hết
chuyến xe này đến chuyến xe khác lần lượt đến, sau khi bốc dỡ hàng, chúng lại
đi tiếp chuyến nữa, suốt cả ngày. Rất nhiều lần Sara có cơ hội được nhìn thấy
những đồ vật được mang vào thuộc tầng lớp thượng lưu. Tất cả đồ đạc phần lớn là
đồ Á Đông rất đẹp và sang trọng. Những tấm thảm lớn và những cây cảnh đẹp tuyệt
được đưa xuống xe và còn bao nhiêu là tranh và sách đủ để trưng bày cho một thư
viện. Một trong những đồ đạc là một pho tượng Phật đặt trong một điện thờ rất
đẹp.

“Một
trong những thành viên của gia đình chắc chắn đã từng ở Ấn Độ,” Sara nghĩ. “Họ
chắc phải rất thông thạo rất và yêu thích đồ Ấn Độ. Mình sẽ rất vui vì cảm thấy
họ như những người bạn vậy cho dù chẳng có cái đầu nào thò ra ngoài cửa sổ
phòng áp mái cả.”

Sau
khi đã mua sữa cho bữa tối cho nhà bếp, Sara không bị sai thêm việc gì nữa nên
em có điều kiện quan sát kỹ hơn và có một điều làm em vui mừng và quan sát
nhiều hơn cả. Đó là em nhìn thấy người bố của Gia Đình Lớn, một người đàn ông
đẹp trai và tất nhiên là má cũng vẫn đỏ au, chạy tới chạy lui trong nhà mới
đến, tham gia mọi việc như một thành viên của gia đình vậy, dáng bộ rất thân
mật tự tin. Ông ở trong nhà hồi lâu rồi lại đi ra ngoài xem xét và chỉ bảo
những người làm công như một người đầy quyền hành vậy. Rõ ràng là quan hệ của
ông với gia đình mới dọn đến rất gần gũi nên ông đã làm những việc đó thay họ.

“Không
biết gia đình này có con không nhỉ?” Sara tự hỏi. “Nếu có, chắc chắn những đứa
trẻ nhà Gia Đình Lớn sẽ đến chơi với lũ trẻ nhà này và biết đâu chúng chẳng
thích thú leo lên căn phòng áp mái.”

Tối
hôm đó sau khi đã tròn bổn phận của mình, Becky sang thăm người bạn tù của mình
và mang theo những tin tức mới.

“Có
một người đàn ông Ấn Độ mới dọn đến nhà bên cạnh. Tôi không biết ông có phải
người da ngăm đen không nhưng chắc chắn là người Ấn Độ. Ông ấy rất giàu nhưng
ốm yếu còn người cha của Gia Đình Lớn là luật sư của ông ấy đấy. Ông ấy có rất
nhiều phiền muộn nên mới bị ốm. Ông ấy thờ một vị thần linh nào đó. Tôi nhìn
thấy họ mang vào cho ông ấy một vật bằng gỗ hay đá gì đó và ông ấy cúi đầu
khấn. Ông ấy đang đi tìm dấu vết gì đó. Bạn có thể nhận được tiền nếu như có
tin tức cung cấp cho ông ấy.”

Sara
hơi cười và nói: “Tôi không tin ông ấy thờ pho tượng đó, có một số người giữ nó
để ngắm nhìn thôi vì chúng cũng đẹp. Bố của tôi cũng có một pho rất đẹp nhưng
ông đâu có để thờ.”

Becky
có ý tin là người hàng xóm mới là người Á Đông và theo cô ông ta có vẻ rất lãng
mạn hơn là chỉ đơn thuần đi lễ nhà thờ với quyển kinh thánh như những người
bình thường khác. Tối hôm đó Becky ngồi lại nói chuyện rất lâu về những người
hàng xóm mới. Không biết ông ta là người như thế nào, ông ấy có vợ con hay
không, và nếu có thì vợ con ông ấy ra sao. Còn Sara thì không thể không hy vọng
là những người hàng xóm mới sẽ là người da ngăm đen, đầu quấn khăn vải, và con
cái họ tất giống như bố mẹ chúng, tất cả phải là Á Đông.

“Tôi
chưa từng sống cạnh người Á Đông bao giờ nên tôi rất muốn biết họ sống thế nào,”
Becky nói.

Cũng
phải vài tuần sau sự tò mò của Becky mới được giải đáp. Người hàng xóm này
chẳng có vợ con gì cả. Ông sống độc thân chẳng có gia đình vợ con gì hết. Diện
mạo của ông cho thấy ông không được khỏe và đầu óc cũng chẳng được thanh thản.

Một
hôm có chiếc xe đến và đỗ ngay trước cửa. Cửa xe mở, lại chính là người cha của
Gia Đình Lớn bước ra trước. Theo sau ông là một hộ lý mặc đồng phục và tiếp nữa
là hai người hầu nam đến để phục vụ ông chủ của họ. Cuối cùng ông chủ cũng bước
ra khỏi xe với sự giúp đỡ của những người phục vụ. Trông ông hốc hác, buồn bã,
gày gò chẳng khác gì bộ xương quấn trong chiếc áo choàng lông, người ta đưa ông
vào nhà và người bố trong Gia Đình Lớn đi cùng với ông trông rất lo lắng. Một
lúc sau một cỗ xe nữa chở bác sĩ đến để chăm sóc sức khỏe cho ông cũng tới.

Trong
giờ tiếng Pháp ngày hôm sau Lottie cũng thì thầm với Sara: “Nhà bên cạnh có một
người đàn ông da vàng mới đến ở rồi, chị có biết không? Chị có nghĩ ông ấy là
người Trung Quốc không? Sách địa lý nói người Trung Quốc có màu da vàng.”

Sara
cũng thì thầm đáp lại: “Không, ông ấy không phải người Trung Quốc đâu, ông ấy
rất yếu. Thôi làm bài tập đi, Lottie.”

Đó
là phần mở đầu của câu chuyện về người đàn ông Ấn Độ.