Công chúa nhỏ - Chương 12

CHƯƠNG XII: BÊN KIA BỨC TƯỜNG

Thật
thú vị khi mường tượng ra tất cả những gì đang xảy ra ở bên kia bức vách nhà
mình nếu như bạn sống trong một dãy nhà liền nhau. Sara luôn tự giải trí bằng
việc tưởng tượng ra những điều đang còn bí ẩn với em ở bên kia bức vách ngăn
giữa trường dòng Select và ngôi nhà có người đàn ông Ấn Độ ấy. Em biết phòng
học của bọn trẻ ở ngay cạnh phòng đọc sách của ông ấy và hy vọng là bức tường
ấy đủ dày để ông ấy không bị phiền toái bởi những tiếng ồn do bọn học sinh gây
nên sau giờ học.

“Tôi
thấy rất mến ông ấy,” Sara nói với Emengade. “Tôi không muốn ông ấy bị khó
chịu. Tôi đã cảm thấy ông ấy như một người bạn của mình mặc dù chưa từng nói
chuyện với ông ấy lần nào. Bạn cũng có thể như vậy, chỉ cần quan sát họ, nghĩ
về họ và cảm thông với họ cho đến khi bạn thấy có một mối liên hệ nào đó. Tôi
luôn thấy lo lắng khi thấy xe của bác sĩ đến hai lần trong ngày. Chắc ông ấy
phải ốm lắm.”

“Tôi
có rất ít bạn cũng như các mối quan hệ, tôi thấy rất vui khi nghe bạn nói vậy,”
Emengade suy nghĩ một hồi nói. “Các bà cô của tôi lúc nào cũng chỉ có một điệp
khúc: ‘Emengade thân yêu ơi, cháu béo quá đấy, cháu không được ăn kẹo đâu đấy’,
còn các ông chú của tôi hễ gặp là chỉ toàn hỏi những câu như ‘khi nào thì
Ewward đệ tam lên ngôi? Và ai đã bị chết vì đã ăn quá nhiều cá?’.”

Sara
cười và nói: “Những người mà bạn chưa bao giờ nói chuyện với thì chẳng thể nào
hỏi bạn những câu hỏi như vậy được mà tôi chắc rằng kẻ cả khi quen thuộc rồi
ông Ấn Độ đó cũng chẳng hỏi những câu đó đâu. Không biết vì sao tôi rất quý ông
ấy.”

Sara
đã trở lên gắn bó yêu quý những thành viên của Gia Đình Lớn cũng chỉ vì thấy họ
lúc nào cũng vui tươi còn em thấy yêu quý người đàn ông Ấn Độ vì trông ông lúc
nào cũng ốm yếu và không được vui. Ông đúng là chưa hồi phục được sau những
trận ốm nặng. Bọn người hầu trong nhà bếp không hiểu bằng cách nào biết được
những thông tin về ông và thường xuyên đem ra đàm tiếu. Thực ra ông không phải
là người Ấn mà là người Anh sống ở Ấn Độ. Ông đã phải trải qua nhiều nỗi bất
hạnh, có lúc tưởng chừng như không còn cách nào gượng dậy được và cuộc đời như
vậy là hết. Cú sốc lớn đến mức não ông bị tổn thương rất nặng và ảnh hưởng đến
sức khỏe của ông, từ đó đến giờ mặc dù số phận vẫn mỉm cười với ông và tất cả
tài sản của ông đã được bồi hoàn. Nỗi khổ tâm, bất hạnh của ông cũng liên quan
tới việc khai thác mỏ.

“Làm
gì có lắm kim cương thế!” Người đầu bếp bàn tán. “Tôi mà có tiền thì chẳng bao
giờ đầu tư vào máy cái mỏ kim cương ấy cả.” Bà vừa nói vừa đưa mắt liếc nhìn
Sara. “Chúng mình cũng đã biết kết quả rồi đó.”

“Chắc
ông ý cũng đau khổ như bố mình đã đau khổ,” Sara nghĩ. “Ông ấy cũng bị ốm như
bố mình nhưng thật may là ông ấy không chết.”

Từ
đó trái tim Sara hướng về ông nhiều hơn trước. Em cảm thấy vui khi bị sai đi
làm công việc bên ngoài vào buổi tối vì lúc đó cửa sổ nhà bên cạnh chưa đóng và
em có cơ hội nhìn thấy người bạn tự nhận của mình qua cửa số. Nếu như lúc đó
không ai thấy, Sara thường hay đứng lại, vịn tay vào song cửa chúc ông một buổi
tối tốt lành cứ như thể là ông nghe thấy được vậy.

“Nếu
như ông không nghe được chắc ông phải cảm nhận được,” Sara cứ cho là như vậy.
“Có lẽ những ý nghĩ tốt đẹp sẽ đến với người ta bằng cách này hay cách khác, có
thể là qua cửa sổ, cửa ra vào hay qua những bức tường và như vậy ông cũng cảm
thấy ấm áp và được an ủi hơn và chắc ông không thể hiểu nổi tại sao lại có một
con bé đứng dưới trời đông giá lạnh để cầu chúc cho ông được mạnh khỏe và hạnh
phúc phải không. Cháu rất thương ông và lo lắng cho ông.” Cứ như vậy Sara đứng
thì thầm một cách nồng nhiệt. “Ước gì ông cũng có một đứa cháu như cháu đã từng
vui đùa với bố chấu khi ông bị đau đầu. Cháu cũng mong được làm đứa cháu gái
nhỏ của ông để tự mình chăm sóc cho ông, ông kính yêu ạ. Cháu chúc ông ngủ thật
ngon nhé. Chúa sẽ phù hộ ông!”

Sau
mỗi lần như vậy Sara ra về với tâm hồn thanh thản, cảm thấy có cái gì đó rất ấm
áp trong lòng. Tình cảm của em mạnh mẽ đến nỗi em tin chắc nó sẽ đến được với
ông bằng cách nào đó khi ông ngồi một mình trên ghế bành cạnh lò sưởi và gần
như lúc nào ông cũng mặc chiếc áo choàng dài, chống tay lên trán vào nhìn chằm
chặp vào ngọn lửa. Ông cũng nhìn Sara với cặp mắt của con người luôn bị giày vò
day dứt bởi một nỗi phiền muộn. “Ông lúc nào cũng như đang nghĩ ngợi điều gì đó
mà nó đang làm cho ông nhức nhối,” Sara nói một mình. “Nhưng ông đã lấy được tiền
rồi mà, và thế nào ông cũng khỏi bệnh mà, tại sao ông lúc nào cũng đau khổ như
vậy? Chắc ông đang có nỗi khổ tâm nào đó khác nữa thì phải.”

Nếu
như có điều gì khác nữa mà cả đám gia nhân cũng không biết được thì chắc người
bố của Gia Đình Lớn, người mà em gọi là Ông Montmorency phải biết vì ông thường
đến tăm người đàn ông Ấn Độ. Cả bà mẹ cùng đàn con cũng thường xuyên đến thăm
ông nhưng không nhiều bằng. Ông có vẻ đặc biệt yêu mến hai đứa con gái Janet và
Nora, chính chúng đã rất ngạc nhiên khi đứa em trai cho Sara sáu đồng xu. Sự
thật là trong trái tim đôn hậu của ông có một khoảng rất lớn dành cho trẻ em
nhất là các em gái vì một lý do của riêng mình. Janet và Nora cũng yêu quý ông
như ông yêu quý chúng nó vậy và luôn mong đợi đến các buổi thăm ngắn ngủi nhưng
được chuẩn bị rất chu đáo và có phần nghi thức vì ông là người ốm đau.

“Thật
tội nghiệp bác ấy,” Jannet nói. “Bác ấy nói chúng mình đến làm bác ấy rất vui,
chúng mình cố gắng làm cho bác ấy vui nhưng không được làm ồn đâu nhé.”

Janet
là chị cả có trách nhiệm bảo ban các em, chính nó là người quyết định khi nào được
phép yêu cầu ông kể cho chúng nghe những câu chuyện về Ấn Độ. Và cũng chính
Janet quyết định khi nào thì nên rút lui vì sợ ông mệt và bảo cho Ram Das đến
chăm sóc ông. Chúng cũng rất yêu mến Ram Das, người cũng có thể kể cho chúng
nghe rất nhiều câu chuyện về Ấn độ nếu như anh ta nói được thứ ngôn ngữ khác
ngoài tiếng Hindu. Tên thật của người đàn ông Ấn gốc Anh đó là Carisford. Chính
Janet đã kể cho ông nghe nó đã gặp một cô gái ăn mày nhưng lại không phải là ăn
mày và ông cũng đã rất quan tâm tới chi tiết đó, nhất là sau khi nghe Ram Das
kể về những gì đã xảy ra hôm con khỉ của ông làm một chuyên ngao du trên mái
nhà. Ram Das đã mô tả chi tiết cho ông những gì mà anh đã thấy trong căn phòng
gác xép hoang tàn của Sara. Chẳng hề có thảm trải sàn, vôi vữa trên trần và
tương đã tróc lở và hoen ố, không lò sưởi và giường thì cững là chật chội.

Sau
khi nghe những chuyện đó, một hôm ông nói với người bố của Gia Đình Lớn “Carmichale,
tôi không biết có bao nhiêu căn phòng gác xép như vậy trong khu này và có bao
nhiêu bé gái tội nghiệp phải làm kiếp tôi đòi, phải sống trong điều kiện tồi tệ
như vậy, trong khi tôi sống trên đống của cái không thuộc về mình.”

“Ôi
ông bạn thân mến ơi, ông hãy bớt tự giày vò mình đi thì mới khỏi bệnh được.”
Ông Carmichale hồ hởi nói. “Nếu như ông có trong tay tất cả của cải của Ấn Độ
và các vùng phụ cận thì ông cũng không thể nào làm cho thế giới này bớt những
bất công được đâu. Và nếu như ông muốn sửa sang lại cả căn phòng áp mái của khu
vực này thì vẫn còn nhiều căn phòng như vậy ở khắp mọi nơi cơ mà. Sự thật là
vậy đấy!”

Ông
Carisford ngồi trầm ngâm cắn móng tay, nhìn vào những lớp than hồng rực trong
lò rồi chậm rãi nói: “Ông có cho là…” Dừng một lúc rồi ông nói tiếp. “Ông có
nghĩ rằng đứa bé mà tôi không ngừng một giây nghĩ đến, đang phải sống trong
hoàn cảnh tương tự như vậy không?”

Ông
Carmichale nhìn ông lo ngại, vì rằng chính cái điều mà ông đang suy nghĩ và
luôn tự giày vò đó đang làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe ông.

“Có
thể đứa trẻ ở trường bà Pascal tại Paris chính là đứa trẻ ông đang tìm
kiếm,” ông Carmichale động viên. “Nếu vậy thì con bé chắc đang ở trong vòng tay
những người có khả năng nuôi nấng nó. Họ đã nhận nuôi con bé vì nó đã từng là
bạn thân nhất của của đứa con gái xấu số của họ đấy thôi. Họ không có đứa con
nào khác và bà Pascal cho biết bố mẹ nuôi của con bé là một trong những người
giàu có ở Nga rồi còn gì.”

“Mụ
đàn bà độc ác đó chắc chắn là không biết người ta đã mang con bé đi đâu!” Ông
Carisford kêu lên.

Ông
Carmichale chẳng biết nói gì, nhún vai ngồi im.

“Rõ
ràng là con mẹ người Pháp láu cá, hám lợi đó đã quá mừng khi đẩy được đứa bé ra
khỏi tay mình khi biết bố nó qua đời và không để lại cho nó một gia sản nào.
Loại đàn bà đó chẳng hề động lòng trước số phận của những đứa trẻ mà họ cho là
sẽ trở thành gánh nặng cho họ. Bố mẹ nuôi con bé đã mất tích chẳng để lại dấu
vết nào cả.”

“Cứ
cho nó đúng là đứa trẻ mà tôi đang tìm kiếm đi, tôi chỉ nói là giả sử thôi vì
chưa có gì chắc chắn cả, thì cũng có điều đáng phải kiểm tra lại vì bà Pascal
nói tên nó là Carew chứ không phải là Crewe. Cũng có thể chỉ là do phát âm sai
và cũng có nhiều đứa trẻ có hoàn cảnh giống nhau, một sĩ quan người Anh đã để lại
một đứa con gái không mẹ tại một trường nào đó và rồi bị chết sau một vụ kinh
doanh đổ bể.” Ông Carmichale dừng lại một hồi rồi hỏi tiếp và một ý nghĩ thoáng
hiện trong đầu “Ông có chắc con bé được gửi học ở một trường ở Paris không?”

“Ông
biết đấy tôi chẳng chắc chắn được điều gì cả,” ông carisford cay đắng nói. “Tôi
cũng chưa từng gặp con bé cũng như mẹ nó. Ralph Crewe và tôi là bạn thân từ
thưở thiếu thời nhưng chẳng bao giờ gặp lại nhau cho đến khi gặp lại tại Ấn Độ.
Tôi bị cuốn vào công việc khai thác mỏ và kéo theo cả Crewe. Công việc nhiều
quá, chúng tôi lúc nào cũng bù cả đầu lên, và khi chúng tôi gặp nhau, tôi chỉ
nghe nói con bé đó được gửi đi học ở đâu đó, tôi chả nhớ gì cả, bây giờ làm sao
tôi biết được.”

Ông
lại bắt đầu bị kích động, ông luôn bị như vậy khi bộ não bị khuấy động bởi
những kí ức về những tai họa của quá khứ.

Ông
Carmichale nhìn ông lo lắng, thấy cần phải hỏi ông vài điều nhưng phải rất dè
dặt và nhẹ nhàng.

“Ông
có lí do nào để nghĩ rằng con bé đang học ở Paris không?”

“Có
chứ, vì mẹ của nó là người Pháp và tôi có nghe nói là bà mẹ rất muốn con mình
được học ở Paris. Nhưng thế là chưa đủ để khẳng định được điều gì, mà chỉ là có
thể thôi.”

“Đúng
thế, chỉ là có nhiều khả năng,” ông Carmichale nói.

Người
đàn ông Ấn độ vươn người ra phía trước, đập mạnh bàn nói lớn. “ Tôi nhất định
phải tìm bằng được con bé. Nếu nó còn sống thì nó phải ở đâu đó, nếu như nó
không có bạn bè và người thân thích và cũng chẳng có một xu dính túi thì đó là
lỗi tại tôi. Làm sao bộ não của tôi lành lặn được khi không một phút nào tôi
không bị giày vò bởi lỗi lầm này. Sự thay đổi đột ngột số phận của những khu mỏ
này đã làm tan biến tất cả những giấc mơ của chúng tôi và biến đứa con gái bé
bỏng của Crewe tội nghiệp thành kẻ ăn xin khốn khổ.”

“Không,
không phải thế,” ông Carmichale cố gắng trấn an. “ Hãy bình tĩnh đi, hãy tự an
ủi mình bằng ý nghĩ nếu tìm lại nó thì ông vẫn có cơ hội để bù đắp cho nó và
trao lại toàn bộ tài sản cho nó cơ mà.”

“Tại
sao tôi lại không đưa ra những bằng chứng chống lại khi công việc đổ bể chứ?”
Carisford rên rỉ trong tuyệt vọng. “Tôi tin là tôi có thể thay đổi được tình
thế nếu như tôi không phải chịu trách nhiệm về tiền bạc của mọi người và của
chính mình nữa. Tội nghiệp Crewe, anh ấy đã đặt hết tiền vào khai thác mỏ vì
anh ấy đã tin tôi, yêu tôi nhưng lại chết với ý nghĩ là tôi đã hại anh ấy.
Chính tôi, Tom Carisford người đã từng cùng chơi bóng chày với anh ấy tại Eton,
chắc anh ấy đã nghĩ tôi là thằng sở khanh lừa đảo.”

“Thôi
xin ông đừng trách mình nữa.”

“Tôi
không tự trách mình vì sự tính toán sai nên dẫn đến thất bại mà tôi trách mình
vì đã thiếu can đảm, tôi đã chạy trốn như một kẻ lừa đảo, một tên ăn trộm chỉ
vì tôi không dám đối mặt với anh ấy - người bạn tốt nhất của mình - để nói với
anh ấy rằng tôi đã hại cô con gái nhỏ của anh ấy.”

Người
cha tốt bụng của gia đình lớn đặt tay lên vai ông an ủi. “Anh trốn chạy chỉ vì
đầu óc anh lúc đó không bình thường. Anh đã quá căng thẳng và luôn bị tra tấn
về mặt tinh thần thôi. Nói đúng hơn anh gần như bị mất trí rồi. Nếu như anh
không bị như vậy chắc anh đã ở lại để chiến đấu tới cùng rồi, anh đã phải vào
bệnh viện và phải chống chọi với căn bệnh viêm não chỉ hai ngày sau đó. Anh còn
nhớ không?”

Hai
bàn tay ôm lấy đầu, Carisford tiếp tục oán thán: “Chúa ơi, đúng là tôi đã bị
điên lên vì quá hoảng sợ và tuyệt vọng. Tôi đã mất ăn mất ngủ nhiều tuần lễ và
chính cái đêm tôi trốn đi, không gian như đặc quánh lại, tôi thấy biết bao thứ
ghê sợ đang chĩa vào mình.”

“Tất
cả những điều đó đã đủ để giải thích tại sao anh bỏ đi rồi,” ông Carmichale thuyết
phục. “Làm sao một người đang ở bờ vực của bệnh tật hiểm nghèo và tuyệt vọng có
thể đánh giá được sự việc một cách minh mẫn.”

Carisford
lắc đầu ủ rũ nói: “Khi tôi tĩnh tâm quay lại thì Crewe đáng thương đã chết mất
rồi, người ta đã chôn anh ấy rồi. Tôi thì chẳng nhớ gì cả, hàng tháng trời trôi
qua, tôi chẳng nhớ gì tới con bé cả, ngay cả khi đã nhớ tới nó thì mọi thứ cũng
rất mơ hồ.”

Ông
dừng lại một lất rồi rụi tay lên trán và nói tiếp: “Kể cả bây giờ cũng vậy tôi
cứ cố nhớ mãi mà chẳng nhớ gì cả, chắc chắn là Crewe đã phải nói cho tôi tên
trường mà anh ta gửi con bé rồi chứ. Anh có nghĩ thế không?”

“Cũng
có thể anh ta chưa từng nói cho tôi biết. Thậm chí ngay cả tên con bé tôi cũng
chưa từng biết đến mà chỉ nghe anh ấy nựng là ‘cô chủ nhỏ’ mà thôi. Thật khốn
khổ, những cái mỏ vàng đáng ghét đã rửa sạch mọi thứ khỏi đầu chúng tôi. Liệu
chúng tôi còn nói gì với nhau nữa chứ. Nếu như anh ấy có nói tên cái trường đó
thì bây giờ tôi cũng chẳng nhớ gì hết và chẳng bao giờ tôi có thể nhớ lại cả.”

“Bình
tĩnh lại đi, thể nào chúng ta cũng tìm ra con bé mà,” ông Carmichale tiếp tục
động viên. “Chúng ta sẽ tiếp tục tìm bà Pascal và cặp vợ chồng người Nga tốt
bụng đó, đấy có thể là đầu mối, tôi sẽ đi Matxcova để dò la tin tức.”

“Giá
như tôi có thể đi cùng anh được, tiếc thay tôi lại chỉ có thể ngồi trên cái xe
lăn này và nhìn ngọn lửa thôi. Khi nhìn vào ngọn lửa tôi như đang nhìn thấy
khuôn mặt trẻ của Crewe nhìn chằm chặp vào mình như đang muốn hỏi tôi về điều
gì. Thỉnh thoảng khi đêm xuống tôi lại thấy anh ấy đứng trước mặt mình và vẫn
hỏi những câu hỏi ấy. Anh có đoán được anh ấy muốn hỏi gì không?”

Ông
dè dặt trả lời: “Tôi không biết!”

Anh
ấy luôn nói: “Tom, Tom già ơi, ông có biết ‘cô chủ nhỏ’ bây giờ ở đâu không?”
Ông nói, tóm lấy tay Carmichale lắc mạnh. “Tôi phải tìm được câu trả lời cho
anh ấy, nhất định tôi phải tìm ra con bé, hãy giúp tôi tìm ra nó, hãy giúp tôi
với!”


bên kia bức tường, Sara đang ngồi trên sàn nói chuyện với chú chuột Melchisedec
khi nó bò ra để nhận suất ăn tối.

“Hôm
nay thật khó để đóng vai một công chúa, Melchisedec ạ, khó hơn mọi ngày và sẽ
còn khó hơn vì trời mỗi ngày một lạnh hơn, đường phố cũng trơn hơn. Khi
Lavinnia cười nhạo vì chiếc váy lấm lem của tôi lúc tôi đi ngang qua sảnh lớn,
tôi đã định đáp lại bằng những lời khiếm nhã nhưng tôi đã kịp trấn tĩnh lại
đúng lúc. Tôi nghĩ là công chúa thì không được phản ứng như vậy. Tôi đã cắn
răng để nuốt cơn giận vào trong lòng, tôi đã phải làm như vây đó Melchisedec ạ!”

Chiều
hôm nay thật lạnh và tối nay cũng lạnh thấu xương, Sara duỗi người nằm sõng
soài, gối đầu lên hai cánh tay, một động tác quen thuộc mỗi khi có một mình và
thì thầm. “ Bố ơi, không biết đã bao lâu rồi từ khi con vẫn còn được gọi là ‘cô
chủ nhỏ’ của bố!”

Đó
là tất cả những gì xảy ra trong ngày hôm nay ở hai bên của một bức tường.