Hồ Quý Ly - Chương 12 - Phần 4

Lúc đó chiến tranh sẽ tới, bão tố sẽ tới. Sự tàn khốc thổi ngọn cuồng phong trải khắp núi sông. Chỗ nào cũng đầu rơi máu chảy. Tiếng than khóc vang tận chín tầng mây... Nhưng sự thay da đổi thịt ấy là cần thiết, nó cũng có cái hay. Nếu non sông đứng vững, nó sẽ tươi trẻ lại, những thứ thối rữa bị cuốn trôi đi, chỉ còn để lại những mầm sống mạnh mẽ. Qua thời lột xác, non sông sẽ bừng tỉnh dậy... Thế đấy! Bi thương lắm! Trong cuộc đổi đời, biết bao nhiêu người bị cơn bão cuốn phăng, bị ném vào lửa không thương xót... Cũng chính vì vậy, nên lúc này, ta cần có một minh quân, một ông vua đại trí

Những lời nói của Cẩn tưởng như bâng quơ, nhưng chúng như những mũi kim đâm vào lòng ông vua đạo sĩ. Cẩn đang tự trấn an cho mình, hay ông ta đang đọc một bản án. Thuận Tông thở dài, lời nói của Cẩn không phải không mang nhiều sự thực, nhưng nó đầy nét bi thảm. Nó tôn vinh sự cương cường, hạ nhục sự mềm yếu thậm chí nó kết án tất cả những ai yếu đuối, ném tất cả vào lò lửa để cho cái nóng địa ngục, tôi luyện, để lúc ra lò ai không chịu được sẽ tan biến đi, nhường chỗ cho những mầm sống tinh khôi... thức dậy... Chả trách, Cẩn được thái sư dùng làm người tâm phúc. Ông ta đầy nhiệt huyết tới mức mê cuồng... Nhưng mà ngày mai khi tất cả đã tinh khôi. Cẩn sẽ thành người ra sao?... Liệu sự nhiệt tâm của Cẩn sẽ biến đổi thành cái gì? Dù là cái gì nữa, thì đó cũng là chuyện ngày mai; còn ngày hôm nay ta là kẻ mềm yếu, thậm chí còn là vật cản trở... Số phận của ta thế nào? Cẩn đã báo cho biết rồi đấy ông vua hẩm hiu thầm nghĩ như vậy trong lòng. Đoạn cuối những lời nói của Cẩn. Thuận Tông bị những ý nghĩ riêng của mình kéo đi, nên không nhớ được. Song, cần gì nữa. Cái chính đã được tỏ lộ...

Lúc này Nguyễn Cẩn lấy ra một chiếc liễn nhỏ, ủ trong chiếc ấm giỏ sơn son thiếp vàng.

- Đây là canh hồng sâm. Vua mới lên ngôi nhà Minh nhân các sứ thần sang mừng, đã ban cho các vua ngoài cõi mỗi người một hộp sâm quý. Thái sư dặn phải nấu cho đúng cách, dâng lên nguyên quân. Sợ rằng tiểu đồng trên núi quê mùa, thô lậu, không biết nấu, làm hỏng vật quý, nên thần đã đem viên ngự thiện từ Thăng Long tới đây, chuẩn bị nấu từ đêm hôm qua, để dâng lên mời nguyên quân thưởng thức.

Thuận Tông chợt nhìn chằm chằm vào liễn canh sâm. Ông đã hiểu. Ông gật đầu mỉm cười, đỡ lấy bát canh còn nóng hổi được múc ra tỏa hương thơm nức. Ông nói:

- Ngửi mùi đã thấy ngon lắm! Để ta ăn ngay món quý ta đã quên mùi nó từ lâu. Ta nghe nói ăn thứ sâm này sẽ sống lâu... trăm tuổi.

Rồi vừa cười, ông vừa húp sụp soạt một cách ngon lành. Trong khi đó, con vượn nhỏ rối rít chạy quanh và rên lên những tiếng lạ lùng, như lo sợ, như vừa thấy một chuyện bất thường đã xảy ra. Nguyễn Cẩn mắt tươi lên. Ông ta kính cẩn quỳ lạy, rồi mới quay xuống núi. Sau lưng, trong động đá, con vượn nhỏ vẫn cuống quýt kêu ầm ĩ.

Sáng hôm sau, Nguyễn Cẩn lại leo lên quán Ngọc Thanh. Ông ta trằn trọc suốt đêm qua, cứ luôn nghĩ tới bát canh sâm. Và hôm nay lên núi, Cẩn có vẻ nóng lòng. Cẩn sộc ngay vào điện thờ không thấy Thuận Tông, vội rẽ sang động đá. Ông ngạc nhiên khi thấy con vượn nhỏ đang đánh đu trên đám giây leo thả mành trước hang. Cẩn càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy ông vua đạo sĩ đang thanh nhàn uống trà trên sập đá. Thấy viên học sĩ sững người đứng nhìn, Thuận Tông lên tiếng gọi:

- Nhà ngươi đến thật đúng lúc. Trà thái sư biếu ngon lắn. Thứ nước Đạm Thủy ở ao Tích Lịch pha với trà này rất hợp. Thứ nước từ giữa lòng núi tuôn ra không một chút bợn nhơ. Trà thơm, nước thanh tịnh, uống một chút tâm thần thấy hoàn toàn nhẹ nhõm.

Ông vua đạo sĩ rót một chén trà mầu hổ phách đưa cho Cẩn. Viên học sĩ cầm chén nước ngẫm nghĩ. Sở dĩ Cẩn ngạc nhiên ngẫm nghĩ, bởi vì bát canh sâm hôm qua có pha thuốc độc. Thứ thuốc độc này không mùi vị, không gây đau đớn, người uống phải nó chỉ buồn ngủ, sẽ nằm xuống đánh một giấc dài, và không bao giờ thức dậy.

Thế mà sáng nay Thuận Tông lại ngồi ung dung uống trà, có vẻ còn tỉnh táo hơn cả sáng qua.

Không phải Cẩn là người sắt đá đến nỗi chẳng còn trái tim. Giá như lúc này, trước mắt ông là ông vua đạo sĩ hiền hòa, mắt nhắm nghiền, nằm dài trên sập đá, chắc chắn Cẩn sẽ có chút mủi lòng, thương cảm; bởi vì suy cho cùng, có hận thù gì với ông ta đâu, hoàn cảnh buộc ông ta phải chết, cái lý tuần hoàn, bão tố thời cuộc buộc ông ta phải chết... Nhưng, lúc này, Thuận Tông lại ngồi uống trà... Ông ta không dương dương tự đắc, nhưng sự ung dung tự tại của ông vua như chọc vào mắt Cẩn, biến đổi cảm nhận của Cẩn, làm ông thấy bối rối và bực bội. Cái lý của kẻ quyền sinh quyền sát mà. Tại sao ông ta không sợ sệt? Nếu không sợ sệt cũng phải lo lắng chứ. Tại sao ông ta không như một người thường? Khối cơ hội đấy, sao không trốn chạy? Hay Thuận Tông nghĩ rằng ông ta thoái vị đi tu là đủ. Dù sao ông cũng là con rể thái sư Quý Ly. Nhưng lòng dân lại cứ hướng về nhà Trần. Bọn quan trong triều lại cứ muốn dựng một lá cờ đại nghĩa vì ông. Mấy đám giặc cỏ, thanh thế chẳng có gì, cũng phất cờ phò Trần, chúng mọc lên như nấm ở khắp nơi... Thái sư buộc phải muốn ông ta chết.

Chén trà truyền hơi nóng và lòng bàn tay đã nguội đi, Cẩn vẫn mải nghĩ, quên uống. Chợt giọng Thuận Tông cất lên làm Cẩn giật mình:

- Ông đang nghĩ tới lẽ sống chết ư? Ta biết lắm chứ...

Ô hay? Ông ta đoán được ý nghĩ của ta. Thế là hai con người chuyển sang chơi trò nhàn phiếm luận trong hang đá lạnh. Lòng Cẩn đang bộn bề, nhưng Cẩn lại có thể bình tĩnh nói về lẽ huyền sống chết:

- Hạ thần trước khi tới đây, có vào thăm chùa trên núi Đông Sơn, nghe nói có vị danh ni đắc đạo thấu được sự huyền nhiệm, coi sống chết bình đẳng, đã một mình ngồi thiền giữa núi sâu rừng rậm, không ăn uống suốt hai mươi mốt ngày đêm. Hổ lang ngồi chồm hỗm vây quanh.

Thuận Tông cười:

- Vị sư nữ này ta biết. Người đời kính mộ bà ngang hàng với các bậc cao tăng. Chính cha ta Trần Nghệ Vương đã ban hiệu cho bà là “Tuệ Thông đại sư.” Lúc già bà về tu trên núi Đông Sơn gần đây. Một hôm bà nói với đệ tử rằng: “Ta muốn đem tấm thân hư ảo này bố thí cho lũ hổ lang ăn một bữa no.” Rồi bà đi một mình vào thiền định trong rừng sâu gần một tháng. Song chẳng con hổ nào dám xông vào ăn thịt bà cả.

- Tuệ thông đại sư. Nghĩa là con mắt bà nhìn thấu được cả lòng người?

- Ta nghe nói trong lòng ông vẫn có một giọng nói vang lên khuyên nhủ?

Nguyễn Cẩn giật mình: nhà vua biết cả chuyện riêng của ta ư? Rồi Cẩn trả lời:

- Vâng, tiếng nói ấy vẫn vang trong đầu óc hạ thần. Nó báo về một thời đã hết và một thời đang tới.

- Chính vì thế nên ông là người cuồng nhiệt nhất. Cuồng nhiệt để dẫn đất nước đi thật hối hả, đi cho nhanh.

- Hạ thần biết nói sao. Điều bí ẩn của non sông vốn là như vậy phải như vậy.

- Ông là kẻ mê cuồng quá đỗi. - Thuận Tông chợt thở dài. - Ta là kẻ đi theo đạo nhu mềm, thong thả. Mà này ông Cẩn! Ta biết lòng ông đang xáo động. Ta cứ tưởng lòng ông sắt đá... Hóa ra... Ông vẫn còn chút yếu mềm... Vậy nên ta chẳng thù ghét ông đâu... Ông cứ tưởng ta không biết gì khi ta uống bát canh sâm của ông? Thái sư giao việc đó cho ông. Và tay ông đã run lên khi ấy... Còn tiếng nói vẫn thường vang lên trong hồn ông... đàm thoại với ông... chỉ dẫn cho ông, đó là tiếng của ai?... Người ta vẫn bảo đó là tiếng nói Phật. Nhưng ta nghĩ đó chính là tiếng của ông. Ông tự phân thân ra thành hai: một là tiếng nói hư ảo, một là tiếng nói trần thế. Hai nhưng một. Ông tự nói với mình đó thôi. Phật nào nói. Phải phân làm hai bởi vì lòng ông còn dằng xé. Phải đối thoại với chính mình để tự trấn an, để vững lòng tin, bởi vì con đường ông đang đi thật là khốc liệt.

Nguyễn Cẩn ngồi im nghe ông vua đạo sĩ nói. Có bao giờ Cẩn lặng im lâu như thế? Còn Thuận Tông cũng ngừng lại một lúc rồi mới tiếp:

- Ông mới đến chùa núi Đông Sơn một lần... chắc ông chưa biết cặn kẽ về Tuệ Thông đại sư. Để ta kể nốt đoạn cuối lúc đại sư thị tịch. Ta may mắn có duyên hạnh ngộ, thủa nhỏ, được gặp bà một lần. Người từ bi, gầy guộc nét mặt giống hệt như La Hán, nhất là đôi mắt tuệ thông suốt dịu dàng. Sau khi vào rừng, hổ lang không dám ăn thịt, đại sư về chùa ngồi thiền suốt mấy tháng ròng, rồi ngồi thản nhiên mà hóa. Trước lúc thị tịch, người có dặn: “Sau khi ta đi, hãy bớt lại chút xương để chữa bệnh cho người đời.” Đám đệ tử không nỡ, cho hết xương vào hộp phong lại. Qua một đêm, lúc trở dậy, thấy có một chiếc xương cùi tay nằm trên bàn, ở ngoài hộp. Về sau, ai có bệnh đến cầu, mài xương với nước đem cho người bệnh, không ai là không khỏi...

Nguyễn Cẩn ngạc nhiên khi nghe câu chuyện, ông không hiểu được Thuận Tông định nói gì. Nhà vua chỉ bảo:

- Thôi! Ông về đi, đã đến lúc ta phải ngồi tĩnh tọa. Ông cứ yên tâm...

***

Cả đêm hôm ấy Thuận Tông ngồi diện bích. Ông quay mặt vào vách đá, quên cả cái lạnh mùa xuân từ vách núi luồn qua lần áo mỏng xuyên vào da thịt, quên cả tiếng gà rừng gáy lúc nửa đêm và tiếng chân của loài hổ lang lởn vởn trên lưng chừng núi, quên cả tiếng hú sầu muộn của những con vượn, tiếng hú buồn bã của kiếp sống nguyên thủy cô đơn. Ông đã sinh ra kiếp bầy đàn, đã náo nức với kiếp bầy đàn, rồi lại trở về nơi hoang dã với nỗi buồn nguyên thủy - Cái ngưỡng chăng? Vượt qua cái ngưỡng chắc là sự an nhiên hòa đồng mà sự xao động ngờ vực vẫn làm chân con người lưu luyến.

Cho đến lúc cả khu rừng bỗng rộn rã tiếng gà. Mỗi quả núi có vài ba con gà trống ngự trị. Gà núi nọ gọi gà núi kia. Tiếng gà gáy bình minh bổng trầm lúc xa lúc gần; tiếng con gà tre lảnh lót, tiếng con công trầm đục, lại cả tiếng lũ gà cồ ở xóm chân núi hùng dũng và náo nhiệt, tiếng người tranh với tiếng rừng... Tất cả làm rung rinh những làn sương sớm đang trôi ngang khu cổ tự.

Thuận Tông đã tỉnh dậy sau đêm dài tĩnh tọa. Tiểu đồng pha trà. Ông vừa uống trà vừa nghe tiếng gà. Bao nhiêu tiếng gà tranh nhau báo hiệu bình minh chợt làm ông mỉm cười. Và ông thở dài. Rồi, đột nhiên ông bảo tiểu đồng:

- Khách đã đến rồi đấy. Con ra cửa quán đón vào đây!

Khách đến cửa hang, nhà vua đã hỏi:

- Ông Vĩnh đấy phải không? Ta chờ ông... chờ lâu lắm rồi...

Phạm Khả Vĩnh quỳ sụp xuống lạy:

- Bẩm, thượng hoàng nguyên quân đã biết kẻ bầy tôi hèn mọn này đến đây rồi sao?

- Ta biết chứ! Đêm qua lúc tĩnh tọa, ta đã nhìn rõ thấy ông từ chân núi đi lên. Nhưng rồi ông đã dừng chân ngồi trước cửa quán Ngọc Thanh.

Vĩnh ngạc nhiên:

- Hạ thần không có mắt: Hóa ra bệ hạ đã tu được phép thiên nhãn. Mắt đã nhìn xa được ngoài tầm mắt người trần... đã nhìn thấu lòng người.

Ông vua đạo sĩ thở dài:

- Thái sư sai Nguyễn Cẩn tới đây... Hôm qua, nhìn bát canh sâm của Cẩn, ta biết ngay trong đó có gì. Nhưng, ta thản nhiên uống. Ta không bị lừa đâu. Song, ta cứ uống vì ta đã nghĩ kỹ rồi. Ta uống vì lòng ta lúc này đã lạnh tanh. Ta đã chán cảnh tranh đua giành giật. Ta không muốn vì ta mà sinh ra cảnh nồi da nấu thịt... Lạ lùng thay! Ta lại không chết. Có lẽ vì Cẩn, trong lúc bỏ thuốc độc vào bát canh, lòng đã xáo động, thuốc độc chẳng đủ liều nên ta thoát chết. Cũng có thể, vì công phu tu luyện của ta đã đến mức, khiến thứ thuốc độc kia chẳng hại được. Lại có thể vì người pha chế, lúc ra tay, còn có chút xót thương... Nhưng, này ông Vĩnh, thái sư đã sai Nguyễn Cẩn tới đây chăm sóc cho ta; còn ông, ông đến để làm gì?

Tướng quân Phạm Khả Vĩnh vẫn quỳ mọp dưới đất.

- Hạ thần thực muôn phần đắc tội.

- Này ông Vĩnh? Chắc ông biết câu chuyện bà sư ở chùa Đông Sơn gần đây, muốn đem tấm thân hư ảo bố thí cho lũ hổ lang trong rừng. Ngồi suốt một tháng ròng giữa lũ hổ lang, mà chúng chẳng dám ăn...

- Hạ thần thực muôn phần đắc tội. - Vĩnh nhắc lại câu nói cũ. - Lũ chúng thần đúng là lũ hổ lang...

- Ý của ông, ông chẳng nỡ nói ra chứ gì. - Thuận Tông nhắm mắt buồn rầu. - Thôi để ta nói hộ cho - Ta đọc được những ý nghĩ của ông. Thái sư sai Nguyễn Cẩn đi nhưng vẫn chẳng yên tâm. Thái sư sốt ruột sai ông đi tiếp, ông là thượng tướng quân. Giết một ông vua chân yếu tay mềm đã hết quyền như ta mà phải dùng đến tay một tướng quân!...

Phạm Khả Vĩnh như không nén nổi được nữa, ông ta ngồi bật dậy.

- Tâu đức vua, dù có thế nào, xin người cũng đừng nghi ngờ lòng trung hiếu của hạ thần. Nhà thần mấy đời nay đều ăn lộc nhà Trần.

- Ta biết. Trong trận đánh Chế Bồng Nga, cha ta chỉ ban tước hầu, và phong chức thượng tướng quân cho hai người, đó là Trần Khát Chân và ông. Ta còn biết, trước khi chết, cha ta dặn đò hai người phải là hai cây cột trụ, cầm giữ binh quyền bảo vệ cơ đồ nhà Trần... Hỡi ông xa kỵ thượng tướng quân? Người ta còn báo với ta rằng ông và Trần Khát Chân là một. Ông là kẻ phục Trần, nhưng ông nằm im...

Lúc này Phạm Khả Vĩnh vẫn ủ rũ cúi đầu. Ông như muốn nói mà không nói nổi. Thuận Tông nhíu mày.

- Dùng một kẻ chịu ơn sâu của nhà Trần... đi giết một ông vua nhà Trần... Ông bố vợ của tôi thực là sâu hiểm... Ông không cho phép ai nằm ngoài vòng cơn lốc... Thái sư bắt ông phải nhúng chàm... tay ông phải nhúng vào máu nhà Trần... Ông lừng chừng cũng chẳng được, ông phải đồng loã... hoặc là chống đối... Có đúng không? Hỡi ông xa kỵ tướng quân!... Và thế là ông chịu mang tiếng nhơ nhuốc... chỉ cốt...

Phạm Khả Vĩnh phủ phục dưới đất:

- Vâng, thần xin chịu nhơ nhuốc. Chỉ cốt ngôi nhà Trần bền vững...

- Ông nói nữa đi... Ông không nỡ thốt thành lời sao?... Vậy thì ta nói tiếp cho ông nghe... Các ông đã bàn tính... cho rằng nếu Khả Vĩnh giết vua... thái sư sẽ không nghi... Vĩnh sẽ nằm im chờ thời... À, ta hiểu rồi, ý của các ông còn một điều này nữa... Các ông muốn mượn cái chết của ta để làm một cái cớ... tụ hợp lòng dân... phất cờ đại nghĩa trừ kẻ đại nghịch vô đạo... Ta sống cũng được... Ta chết cũng được... Dù thế nào các ông cũng sử dụng được. Có phải vậy không? Có đúng không? Có đúng không? Có đúng không?

Phạm Khả Vĩnh ròng ròng nước mắt, quỳ lạy ba lạy:

- Chúng thần thật đắc tội với bệ hạ.

Vĩnh lại nhắc lại câu nhận tội. Người ông rung lên từng hồi vì xúc động. Còn Thuận Tông, sau cuộc nói chuyện bỗng rơi vào tư lự. Ông thầm nhủ: Thế đấy! Tất cả đều đến để cầu xin ta chết. Quý Ly mong ta chết đã đành, nhưng cả Khát Chân cũng muốn ta chết. Ai bảo ngươi sinh vào kiếp vua! Ai bảo ngươi là ông vua hiền. Mà hiền thực hay là hèn? Ai bảo ngươi tôn vinh sự mềm yếu, lại coi thường sự cương cường? Hỡi ôi. Kẻ làm quan làm vua có thể chẳng ác nhưng phải làm ác. Cái ác gắn với vua quan. Cái ác làm món ăn của vua quan. Cái ác là đôi cánh của vua quan. Thiếu cái ác một ngày, ngai vàng buồn rầu. Thiếu cái ác vài tuần trăng, ngai vàng rung rinh. Thiếu cái ác một năm, ngai vàng sụp đổ. Cái ác là nguồn sống của vua quan. Điều đó đã ghi rành rành trong sách sử. Ôi? Cô đơn? Ta sinh ra trong xứ sở cô đơn. Cái ác, cái cuồng nộ bao giờ cũng sống bầy đàn đông đúc. Còn cái hiền hậu tốt lành, lại chỉ như những nụ hoa yếu ớt và lẻ loi. Cái hiền hòa của ta là tội lỗi ư? Vả lại cái tàn nhẫn cuồng nộ phải đâu kém phần quyến rũ? Sao mà ta thấy thương ta. Ta thương ta tức thương kiếp của vạn loài. Thôi thì... ta hãy bắt chước bà sư già Tuệ Thông bố thí tấm thân hư ảo này cho lũ hổ lang... Thuận Tông mỉm cười với ý nghĩ của mình. Ông mở mắt ra, dứt dòng tư lự, bảo xa kỵ tướng quân:

- Ông Vĩnh. Đứng lên đi. Ta chấp nhận lời thỉnh cầu của các ông... Nhưng nên nhớ một điều: sự cuồng ngộ, dù của ai, ở đâu, cũng chẳng dẫn tới bến bờ... Ta biết các ông đều mong ta chết, muốn dùng cái chết của ta, nhưng lại chẳng ai - muốn tự mình ra tay... Thôi thì ta cũng tránh tiếng cho các ông. Ta sẽ tự chết. Đêm nay, ta sẽ hóa thân... Còn ông, ông hãy đi đi. Ta không muốn trông thấy mặt các ông cho đến khi ta chết.

Buổi sáng, Trần Thuận Tông xuống Hy Lăng, thắp hương trước mộ Nghệ Hoàng và khấn: “Trước vong linh tiên tổ, con là kẻ có tội. Dù sấm sét nổi lên đùng đùng xé xác con làm muôn mảnh, cũng không đủ đền tội. Nhưng xin hãy thứ tội cho con. Con không muốn cảnh núi sông xương máu, nồi da nấu thịt. Con không đương nổi việc gánh vác chăn dắt muôn dân, vạch đường cứu nước. Nhưng con nghĩ tội với dân còn nặng hơn tội với tổ tiên. Con xin chịu muôn lời xỉ vả, chịu xuống địa ngục cho xứng tội này.” Ông quỳ phục trước mộ cha rất lâu. Sau đó, ra ao Tích Lịch. Nước trong văn vắt và lạnh buốt. Ông mặc cả quần áo trầm mình dưới nước, để cho đàn cá chép đỏ vây quanh. Tay ông cầm vắt cơm bẻ dần, vứt cho lũ cá. Ông chìa tay ra, có con cá nhỏ rúc đầu vào lòng bàn tay kiếm mồi. Ông nói với cá: “Đây là vắt cơm cuối cùng ta bố thí cho các con.” Cả Nguyễn Cẩn, cả xạ kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh đều chỉ dám nấp nhìn ông từ xa, không dám lại gần. Đêm hôm ấy, họ tụ tập chầu chực suốt đêm ở quán Ngọc Thanh. Thượng hoàng nguyên quân Trần Thuận Tông ngồi tĩnh tọa trên thạch sàng, trong hang đá lạnh. Bằng phép bí truyền, ông vua đạo sĩ trút dần hơi thở vào không gian, để cuối cùng tấm thân gầy cứng lại, lạnh toát như băng. Tiểu đồng đứng hầu ngoài cửa hang. Chỉ có con vượn nhỏ ở bên mình ông vua đạo sĩ. Nó rên rỉ, và cũng như lần trước ôm chặt lấy ông, vòng tay quanh cổ, chân quặp quanh người, tim áp vào tim. Con vượn muốn như lần trước cố dùng chút hơi nóng để sưởi ấm, làm sống lại trái tim cô đơn thoi thóp của ông, nhưng lần này không được. Quá giờ dần, thì ông vua ra đi vào cõi vĩnh hằng.

***

Lúc Hồ Nguyên Trừng và Thanh Mai cưỡi voi đến núi Đạm Thủy: tấn bi kịch của ông vua cuối cùng nhà Trần đã kết thúc. Cẩn nói với Nguyên Trừng:

- Đức vua muốn được chôn cạnh đức Nghệ Hoàng. Hạ quan đã chôn cất ngài theo sở nguyện.

Con vượn nhỏ, sau khi xác nhà vua đã nhập quan, cứ phủ phục nằm dưới quan tài, bỏ ăn bỏ uống. Lúc chôn vua, con vật chết theo. Nghĩ rằng, nhà vua chỉ có nó là kẻ gần gũi nhất; từ lúc vua hóa điên cho đến lúc đi tu, nó luôn ngày đêm ở bên ngài; vì vậy cũng cho nó một nấm mồ con cạnh mả vua.

Nguyên Trừng thở dài:

- Thế cũng phải. - Trừng dặn dò. - Sau đây, ông phải xây cất lăng mộ cho nhà vua được đẹp đẽ. Rồi ông phải nhanh chóng trở về Tây Đô. Cha ta nhắc nhở ông như vậy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay