Hồ Quý Ly - Chương 09 - Phần 3

Cuốn sách mà cả đời Sử Văn Hoa ao ước viết, cuốn sách mà Sử đã ngày đêm suy ngẫm, sau khi được viên ngục quan giúp cho bình tĩnh trở lại, đó là một quyển quốc sử. Hoài bão của ông là phải viết một quyển quốc sử cho thật đàng hoàng, thật trung thực. Một đất nước mà thiếu sử sách cho hệ thống, rành mạch để nói lên sự nối tiếp quật cường và nền văn hiến của dân tộc thì sẽ khó trở thành một đất nước thực sự. Cụ lang Phạm, ông ngoại Nguyên Trừng, ưu ái nói rằng: Sử là cái kho trí nhớ của người nước Nam ta. Đến kẻ phản loạn như Phạm Sư Ôn cũng không nỡ giết ông vì ông là người chép sử. Cứ nhớ mãi hàm râu quai nón và giọng nói ồm ồm của ông ta: “Vì Sử Văn Hoa không biết nịnh nọt, cũng không quá khích đại ngôn, ta tha cho về. Để cho ông ta được sống làm người chép sử.” Còn bao nhiêu người dân bình thường khác trông thấy ông nghèo nàn, nhưng nghe nói ông là người chép sử, ai cũng quý mến, trọng vọng. Thế đấy! “Chép sử” hai chữ ấy nó thiêng liêng... Vậy làm sao ông có thể phụ những tấm lòng của những con người như vậy? Sử Văn Hoa bị tống ngục đã lâu vẫn chẳng hề thấy ai hỏi tới. Sử nghĩ: “Quái lạ! Hay người ta đã bỏ quên ta? Tại sao không thấy động tĩnh gì?” Thực ra, không phải như vậy. Người ta sục sạo đi tìm chứng cứ, song chẳng tìm thấy gì. Người ta muốn đưa ra chứng cứ giả, song Nguyên Trừng không nghe. Thả cũng khó, mà giam lại cũng dở. Đình úy ty biết Sử Văn Hoa nguy hiểm, nhưng để buộc Hoa vào tội chết thì chứng cứ lại chưa đủ. Còn ý kiến thả Hoa ra cũng chẳng ai dám quyết, bởi vì bắt Hoa là lệnh của thái sư. Người ta cứ lần lửa, lần lữa mãi. Cuối cùng, có khi lần lữa cũng là một đối sách hay.

Còn Sử Văn Hoa, những ngày tù ngục đối với ông dần dần cũng quen đi. Mà cũng có thể nói cuộc sống tù ngục này đã rèn giũa làm cho ông đạt tới độ chín cũng được.

Còn nhớ khi mới bị giam, ông thất vọng và căm giận. Đôi mắt ông không chớp, đau đáu nhìn vào hư vô như để tra hỏi. Giá như lúc ấy, những tia mắt nóng của ông có thể thiêu trụi thế gian, ông cũng chẳng từ. Nhưng vị quan ngục đã tỉ tê vào tai ông câu chuyện về gà chọi của Trang Tử. Ông bàng hoàng vì đó là chuyện tu thân. Đối với kẻ sĩ, việc tu thân phải đặt hàng đầu. Ông không như chú gà chọi lúc đầu chỉ mới nghe tiếng gà lạ đã hăng lên gáy đáp lại. Nhưng xét câu chuyện, ông mới ở mức thứ hai, nghĩa là nghe thì chưa sao, nhưng mắt nhìn thấy, lòng còn xáo động. Còn bây giờ, qua ba tháng trầm luân, ông đã như con gà gỗ, lòng dửng dưng điềm tĩnh, nhưng khí lực lại tràn trề. Ông tự nhủ với mình: “Ước gì bút lực của ta cũng được như vậy. Trước kia, ta sôi nổi quá, để bút lực của ta nổi trôi trên trang giấy. Còn bây giờ, làm sao để ngòi bút ta phác ra được những nét trầm tĩnh, có thể nó kém bay bướm hơn xưa, nhưng khí lực của nó thì giàn giụa ẩn ngầm bên dưới...”

Trong buổi lấy cung đầu tiên, Hồ Nguyên Trừng bảo ông:

- Tôi biết ông là bậc chính nhân. Ông hiểu lẽ sống chết ở đời. Chỉ mong ông nói hoàn toàn đúng sự thật.

Sử là bạn vong niên với cụ lang Phạm. Ông gặp Nguyên Trừng từ lúc chàng còn nhỏ. Và chính ông đã đoán giấc mộng bay cho chàng. Quan chép sử hiểu Nguyên Trừng vốn ngay thẳng. Ông thầm cảm ơn số phận đã dun dủi cho ông gặp Trừng làm người hỏi cung. Sử Văn Hoa liền thành thật kể cho Trừng nghe chuyện mình đoán mộng cho đức Nghệ Hoàng ra sao, rồi chuyện ông dâng tấu biểu can ngăn việc dời đô...

- Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trởn - Trừng thở dài nhắc lại câu nói.

Trừng hiểu mấu chốt vấn đề chính là ở đó ông biết không thể phút chốc có thể làm cho cha mình nguôi cơn giận, và cuối cùng ông cũng hiểu mình không thể đứng hẳn về phía quan thái sử, nếu biết Trừng ra mặt bênh Văn Hoa, Quý Ly sẽ không cho phép ông thụ lý vụ án nữa và sẽ trao nó cho người khác. Nếu thế, Sử Văn Hoa sẽ nắm chắc phần chết. Nguyên Trừng nói với Sử:

- Hiện nay điều cốt yếu phải biết nhẫn nại. Ông sẽ phải nhẫn nại trong tù ngục. Còn tôi, tôi sẽ tìm cách kéo dài sự nhẫn nại của cha tôi.

Lúc ấy, Sử đã được quan cai ngục cho uống rượu và kể chuyện con gà gỗ. Ông đã lấy lại được phong độ trầm tĩnh, đức ẩn nhẫn vốn là đức tính hàng đầu của người đạt giả. Nguyên Trừng một hôm nói với Quý Ly:

- Cha vẫn dạy con: lúc này việc quan trọng nhất của chúng ta là chiêu nạp kẻ hiền tài. Con nghĩ Sử Văn Hoa mới chỉ có những lời xấc xược, chứ chưa phải có âm mưu chống lại cha. Có người định làm chứng cứ giả để ghép ông ta vào tội âm mưu. Con sợ rằng giết ông ta sẽ làm cho kẻ sĩ trong thiên hạ không phục.

Quý Ly cười nụ. Thực bụng, ông chỉ chờ Nguyên Trừng nói ra câu đó. Nhưng Quý Ly không trả lời con trai ngay. Ông nghĩ rất lâu, rồi bảo:

- Thôi được. Hãy cứ để ông ta trong ngục thất. Việc đó xét sau.

Thế là vụ án được kéo dài. Và Sử Văn Hoa ngày đêm nằm trong tù, viết quyển sử của mình, viết trong tưởng tượng.

Cách đó mấy tháng, Nguyên Trừng vào ngục thăm quan Thái sử:

- Tôi nghe nói ông định viết một cuốn sách?

- Vâng, đúng ra một cuốn sử.

- Sử gì?

- Lê Văn Hưu, thầy tôi, mới chỉ viết lịch sử nước Đại Việt đến hết triều Lý...

- Cụ định...

- Tôi đang viết cuốn “Trần sử”.

- Một cuốn sách về triều đại đương thời?

- Thật khó?

- Khó vì nó đụng chính đến nhiều người đang sống?

- Chỉ một phần nhỏ.

- Cái gì khó... lại lớn hơn.

Sử Văn Hoa chợt cười to:

- Còn gì nữa ư? Khó vì đầu tôi sắp lìa khỏi cổ. - Giọng ông bỗng trở nên bi phẫn. - Song giá như tôi được viết nó ra trước khi chết... Như vậy, chết cũng thỏa, chết cũng chẳng ân hận gì...

Nguyên Trừng lặng lẽ ra khỏi ngục thất.

Hôm mới bị bắt, Sử Văn Hoa bị cùm chân tay, cổ bị đóng gông, mồm bị đóng hàm thiếc. Người ta sợ ông gào la chửi rủa hay sợ ông tự vẫn? Theo lệ xưa, tội càng nặng gông càng nặng. Sử Văn Hoa tội nặng nên phải đeo chiếc gông sáu chục cân. Sử Văn Hoa vừa già vừa yếu nên khi đeo gông hầu như ông không ngồi nổi dậy. Thành thử ông nằm cả ngày, chỉ có lúc ăn, mới được tháo gông ngồi dậy. Sau khi gặp Nguyên Trừng lần thứ nhất, ông được đổi chiếc gông nhẹ hơn, chỉ nặng hai chục cân. Sau lần gặp thứ hai, ông được tháo bỏ hẳn gông cùm. Phải mất nửa tháng những vết loét ở cổ chân, cổ tay do bị cùm mới lành trở lại. Cũng khi ấy, viên cai ngục hớn hở vào gặp ông:

- Xin có lời mừng tiên sinh. Tâm nguyện của tiên sinh sắp được thành tựu.

Sử nắm lấy tay viên cai ngục.

- Có chuyện gì vậy? Xin bác cho biết.

- Đức ông Nguyên Trừng sai đưa đến đủ cả giấy trắng, bút, nghiên và mực; Viên thư lại nói với tôi rằng gửi cho bác. Lại dặn bác cứ yên tâm viết cuốn sách cho xong. Đức ông nói: “Sách sử là của quý ngàn đời. Phải là người tâm huyết mới viết nổi sách trong tù ngục.” Đức ông còn dặn tôi phải chăm sóc cho bác ăn uống tử tế.

Từ hôm đó, Sử Văn Hoa bắt đầu viết cuốn Trần Sử, ông viết hối hả, cứ như thể những ngày cuối cùng của đời ông đã cận kề. Mỗi ngày, ông viết vài trang giấy. Ông làm việc như một kẻ ốp đồng. Cách làm việc của ông như sau: ban đêm suy nghĩ thật kĩ lưỡng, ban ngày viết ra giấy. Trong đêm tĩnh lặng, ông tìm tứ, dàn ý chọn chữ, chọn câu. Có đêm, chữ nghĩa của cả một đoạn văn hiện về trong giấc mơ. Điều kỳ lạ, lúc tỉnh dậy, ông vẫn còn nhớ như in có khi cả một đoạn văn dài; và ngày hôm sau, ông chỉ còn việc phóng bút chép nó lại trên giấy trắng. Lúc còn là khóa sinh. Ông nổi tiếng viết chữ đẹp. Nhưng trong những ngày viết sách lạ lùng ấy, ông không tài nào có thể viết nắn nót, những dòng chữ như run rẩy, hối hả, nóng lòng tuôn ra khỏi chiếc bút lông. Ông viết cả trong lúc ăn, viết cả trong lúc ngủ. Có đêm gặp được ý hay. Ông sợ nó biến mất, thế là vội vã nhỏm dậy, lần mò trong gian ngục tối om, tìm giấy, tìm bút, tìm mực và ghi các ý ấy lại bằng vài ba chữ nguệch ngoạc loằng ngoằng - Nhưng về sau để tiết kiệm những tờ giấy hiếm hoi, ông xin viên cai ngục những hòn than và viết chúng ra trên mặt đất, trong đêm đen.

Sử Văn Hoa quá hối hả, ông chạy đua với thời gian, vì sợ đời mình còn quá ngắn. Ông chẳng còn chú ý đến sức khỏe. Sự mải miết đêm ngày ấy biến ông chỉ còn là bộ xương. Viên cai ngục xót xa, xin với Nguyên Trừng cho vợ con Sử vào thăm, nhưng đức ông không nghe:

- Nhà ngươi nên hiểu, ta không ác với ông Sử đâu. Người như ông Sử đâu có nhiều. Hàng trăm năm mới có vài người. Hoàn cảnh lúc này xáo động, được ngồi tĩnh lặng mà viết một cuốn sách như ông Sử hiện nay đâu có phải lúc nào cũng có thời cơ. Hơn nữa, ông Sử đang phẫn chí, quyết chí... nhà ngươi nên biết chỉ trong những lúc như thế này, may ra mới nảy sinh những cuốn sách hay... mà lại cần cho Đại Việt. Ta nghĩ bổn phận của ta và của ngươi lúc này là phải giữ cho ngọn lửa đang nhen nhóm trong đầu óc ông Sử đừng bị tắt lụi nửa chừng...

Viên cai ngục vái tạ Nguyên Trừng, rồi lui ra. Ông đã tự biến mình thành một người đày tớ hầu hạ, mà ông chủ chính là viên tử tù Sử Văn Hoa chẳng hề hay biết. Ông đến nhà Sử, bảo vợ con ông ta tự tay nấu cho ông những vò rượu Mơ ngon nhất. Và cứ cách vài ngày, chờ lúc Sử viết xong vài chục trang giấy, ông lại mang rượu thịt vào đánh chén với người tử tù.

Hôm ấy, ông già viết sử có vẻ hứng thú đặc biệt. Đôi mắt sáng quắc của ông ta hình như được tiếp thêm lửa. Chúng long lanh roi rói như biết cười. Ông đi đi lại lại trong phòng giam, miệng đọc bài thơ “Dựng bia” (Lập bi) của Bạch Cư Dị:

Công đức đã sút kém

Văn chương cũng dần suy

Vẫn lấy đá trong núi

Bên đường dựng thành bia...

Khoe tài là Thái Công

Khoe đức là Khổng Ni

Càng nói nhiều càng đắt

Nghìn chữ vạn đồng thuê...

- Ha ha ha ha! - Sử Văn Hoa chợt dừng đọc, cười khoái trá. Đúng lúc ấy, viên cai ngục mở cửa buồng giam, bước vào.

- Kìa quan bác! Sao đúng lúc thế? Thật là khéo! Đúng khi tôi thèm uống rượu, bác lại mang rượu vào.

Viên cai ngục:

- Hôm nay mua được chiếc vó bò. Thấy bác ngâm thơ, chắc là viết được một đoạn văn thú vị, nên đánh bạo mang rượu vào mừng bác. Món tương này bà vợ tôi làm đấy. Tương ngô ngọt lịm, hòa với nhánh gừng đập giập, ăn với vó bò thật tuyệt.

Hai ông già xếp bằng tròn trên nền nhà tù ngồi nhắm rượu. Sử tâm sự:

- Kẻ hàn sĩ thật khổ nhục. Tài đến như Bạch Cư Dị vẫn phải viết văn bia kiếm sống. Nhà quyền quý giầu có thuê ông viết kể lể công đức rồi đục đá thành bia để khoe với ngàn đời sau. Các nhà viết văn bia đều đế họ lên, rồi biến ông quan nào cũng đều có tài như Khương Tử Nha và có đức như Khổng Phu Tử. Đêm qua, tôi mơ thấy Bạch Cư Dị đến trong mộng, đọc cho tôi nghe bài thơ “Dựng bia.” Quái lạ! Nghe xong tôi giật mình tỉnh dậy và toát mồ hôi lạnh. Tôi sợ bác ạ...

- Làm sao bác sợ?

- Chắc bác hiểu đấy! Tôi sợ mình yếu lòng. Mà lòng ai chẳng yếu... Biết đâu đấy sẽ có lúc tôi cũng chỉ là một kẻ viết văn bia...

- Đấy là bác lo xa.

- Phải lo xa chứ bác. Người ta... ai chẳng có thê nhi.

- Tôi có là tôi nữa không khi người ta bắt nốt vợ con tôi... Tôi thử hỏi lúc đó tôi có trở thành kẻ đi viết văn bia kia không... Vì vậy cả đêm tôi đã nghĩ... Bác là người tri âm. Một lạy này, tôi xin nhờ cậy bác...

- Kìa, bác chớ làm thế... - Viên cai ngục đỡ lấy hai tay vái lạy của Sử Văn Hoa. - Bác cứ yên lòng, tôi sẽ xin hết sức giúp bác.

- Có thể tôi sẽ chết. Nhưng tôi chỉ có thể yên tâm nhắm mắt khi vợ con tôi được yên lành. Ngày mai, nhờ bác đến gặp vợ con tôi bảo hãy trốn khỏi nhà - Hãy trốn lúc ban đêm... Trốn thật xa... Mai danh ẩn tích...

Tại sao Sử Văn Hoa lại hối hả như vậy? Tại sao Sử Văn Hoa lại lo lắng như vậy, thậm chí phải nghĩ đến cả kế vẹn toàn, mai danh ẩn tích cho vợ con sau này. Câu hỏi thứ nhất về sự hối hả như ta biết, do Sử nghĩ rằng thái sư sẽ chẳng tha ông; đã bao nhiêu cuộc thanh trừng xảy ra, chắc chắn ông phải hiểu số phận của mình. Vì hiểu số phận còn ngắn ngủi, nên ông phải tìm một cách viết thích hợp. Ông không thể viết theo trình tự thời gian, không thể tỉ mỉ gọt giũa câu văn, không thể chùng chình ở những câu chuyện trên trời dưới biển. Ông tổng kết, chọn lựa trong diễn biến lịch sử, tìm ra những vấn đề, những sự việc, những nhân vật mà ông coi là quan trọng, mấu chốt, rồi viết theo những chủ đề ấy. Có những ngày ông viết về một đời vua. Rồi ngày khác lại viết về một nhân vật. Có khi suốt vài chục trang giấy chỉ là ghi chép, thống kê về một năm nào đó. Ví dụ ghi chép chung quanh cái tết năm Canh Ngọ (1390), lúc Phạm Sư Ôn chiếm Thăng Long ba ngày, và Chế Bồng Nga đồng thời mang quân uy hiếp kinh đô, để rồi dẫn tới chiến công hiển hách của Trần Khát Chân.

Một đoạn viết đắc ý của ông là đoạn viết về vua Trần Nhân Tông. Ngọn bút lông của ông đã háo hức muốn viết về ông vua hiếm có ấy từ bao lâu nay. Một ngôi sao sáng nhất trong bầu trời lịch sử Đại Việt. Một ông vua văn võ kiêm toàn: võ - thì hai lần đánh tan giặc Nguyên; văn - thì làm văn hiến Đại Việt rực sáng, người tài mọc lên nhiều như sao sa, lại sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Người đời bảo rằng Trần Nhân Tông là hóa thân của Phật tổ, đã đầu thai xuống trần đem lại cho dân Việt những giây phút hào hùng và một cuộc sống thịnh trị hòa mục. Một số nhà nho cạn nghĩ, vì bài bổ Phật giáo, vì cho rằng vua đi tu không phải một ông vua sáng; họ không dám dè bỉu vua, nhưng lại tìm hết cách để làm lu mờ cái ánh sáng hiền minh rực rỡ của đức Trần Nhân Tông. Đó là một đức vua văn hiến; một nước Đại Việt có được tồn tại sánh vai được với thiên hạ hay không, ngoài chiến công hiển hách, còn phải có Văn hiến. Không Văn hiến, dân Nam ta sẽ chỉ còn là một bộ tộc dã man mông muội. Dưới thời đức Nhân Tông, quyển sử Việt Nam đầu tiên được ra đời. Văn Hoa là người chép sử nên ông hiểu ý nghĩa của một quyển sử, nhất là quyển sử đầu tiên của nước nhà. Một khi quyển sử đầu tiên ra đời, tức là cái hồn của dân Việt đã được định hình rõ nét. Rồi còn sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm nữa, nó là thiền phái Đại Việt. Thật cạn nghĩ khi ghép hết cả chiến công đánh giặc cho Trần Hưng Đạo. Đánh giặc: công lớn nhất là của toàn dân. Có ông vua hiền, có hội nghị Diên Hồng và Bình Than thì mới được lòng dân. Vả lại, phải nhớ tới câu: vua nào tôi ấy. Phải nói vua Nhân Tông là người đạo đức mới dám đủ gan dùng Trần Hưng Đạo, vốn là con Trần Liễu, kẻ kình địch với ông, cha mình, làm đại tướng thống lĩnh ba quân. Và cái tâm của Trần Nhân Tông phải đại trí, đại từ, đại bi thế nào mới thu phục nổi cái tâm của Trần Hưng Đạo, vốn là một anh hùng kiệt hiệt một thời... Điều mà Sử Văn Hoa muốn nói lên nhiều nhất: đó là đức vua Nhân Tông chính là người đã điều hòa được âm dương, vì người có tầm nhìn rộng lớn. Núi sông cũng có âm dương; một đất nước cũng có âm dương: Phật giáo và Nho giáo Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thúy của núi sông. Đã bao đời nay, nó vẫn ngân nga trong tiếng chuông chùa làng, lẩn khuất trong đầu ngọn tre, dưới mái rạ, để xoa dịu, nâng đỡ hồn người dân quê trong những lúc nhiễu nhương loạn lạc, trong những năm lụt hạn đói khát, đem lại cho người dân ta sức chịu đựng dẻo dai để chờ đến buổi bình minh sẽ tới. Còn Nho giáo, phần dương của núi sông; đó là phép tắc, lễ giáo, đó là cương cường xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son vinh quang... Nhưng vinh quang mãi cũng có ngày tàn lụi - Vả lại chỉ có phần dương ấy con người sẽ trở nên cuồng nộ. Những lúc tàn lụi ấy, những lúc cuồng nộ đến mất trí ấy cái phần âm tĩnh lặng, u uẩn, linh thiêng sẽ giúp ta trở nên cân bằng, biết cắn răng mà chịu, biết nuốt nước mắt vào lòng, biết chấp nhận nhục nhã để chờ một ngày nào đấy, có thể lại đứng dậy, lại lau sạch khuôn mặt, làm cho đất nước trở nên rạng rỡ.

Đức Trần Nhân Tông hiểu rõ lẽ đó, nên ngài đã khuếch trương Thiền phái Trúc Lâm. Ở thời vua trị vì, Nho Phật hòa đồng, nhật nguyệt cân bằng, sáng tối luân phiên, đó là phút Thái hòa trời đất. Vẫn còn câu hỏi: Tại sao Sử Văn Hoa lại quá lo lắng, và nghĩ cả đến việc mai danh ẩn tích cho vợ con? Điều này cũng vì những trang sử, hoặc nói cho đúng hơn, một đoạn sử mà ông viết mới gần đây, đoạn sử có tên “Minh Đạo luận.” Trong thiên Thuyết nan, Hàn Phi Tử nói: “Rồng là giống vật có thể cợt đùa, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cổ nó, có cái vảy ngược. Ai động đến vảy đó nó giết ngay.” Đoàn Xuân Lôi viết bài “Phản Minh Đạo” tức là đã chạm vào cái vảy ngược, lúc đó Trần Nghệ Tông còn sống, nên chỉ bị lưu đày làm chức học quan bé nhỏ. Còn ông, lúc này Thượng Hoàng Nghệ Tông đã băng, và quyền hành của quan thái sư đã sắp lên tới đỉnh chót vót, trong khi ông lại đang sa ngục thất vì tội can gián dời đô, nếu ông viết Minh Đạo luận, tức là ông đã mắc chồng thêm tội; vậy ông có nên viết đoạn văn đó hay không? Ông suy nghĩ, đắn đo, viết rồi lại xé, xé rồi lại thấy lòng như lửa đốt. Và ma đưa lối quỷ đưa đường hay sao, mà cây bút lông của ông lại viết đoạn văn đó lần thứ hai; lần này bão tố hơn, sắc sảo hơn, kiên quyết hơn. Viết xong Minh Đạo Luận, Sử Văn Hoa thấy nhẹ người... Ông như bà mẹ mang thai thấy đứa con mình ra đời khỏe mạnh, xinh xắn và giống mình như đúc. Lúc đang viết, ông nghĩ sẽ chỉ dành nó cho riêng mình...

Cứ nửa tuần trăng, viên thư lại của Hồ Nguyên Trừng lại tới cấp giấy bút cho Sử, và mang đi những trang giấy đã viết xong.

Và sáng hôm ấy, lại cũng như ma đưa lối quỷ đưa đường lần thứ hai. Sử Văn Hoa cũng không hiểu tại sao ông lại đưa cho viên thư lại thiên Minh Đạo Luận, mà đêm hôm trước ông vẫn cứ đinh ninh rằng đây chỉ là bản thảo mình viết riêng cho mình. Điều lạ lùng, khi giao đi, ông không hề hối hận. Thậm chí có lúc, ông thấy lòng mình sảng khoái, và tỉnh táo; bằng chứng: sáng hôm ấy ông đã ngỏ lời xin viên ngục quan giúp vợ con ông trốn khỏi làng rồi mai danh ẩn tích. Ông đã tính toán kĩ, nếu việc xảy ra cho vợ con ông, thì nhanh nhất phải mươi ngày, vì còn phải đọc, còn phải cân nhắc, bàn tính, rồi người ta mới xử tội ông, tiếp đó mới đến vợ con ông; và việc mới xảy ra ông đã nhờ viên ngục quan ngay.

Hai hôm sau, viên ngục quan rỉ tai ông rang đã lo việc cho ông xong xuôi.

Và thế là, lúc này đây, ông an tâm chờ đợi điều xấu xảy đến.

***

Và nó đã ập đến thật.

Sáng hôm nay, còn rất sớm đã thấy quan Kiểm pháp Nguyên Trừng đích thân vào gặp ông. Nguyên Trừng buồn rầu nói:

- Sáng nay, có lệnh cha tôi đòi gặp mặt ông.

Sử Văn Hoa rất bình tĩnh:

- Có thể lần này chúng ta gặp nhau lần cuối... vì vậy, tôi xin tỏ lòng cảm kích và biết ơn quan Kiểm pháp đã giúp tôi hoàn thành điều tâm nguyện lớn lao nhất của đời tôi.

Hồ Nguyên Trừng:

- Tôi đã đọc xong cuốn Trần Sử của ông. Tôi đã đọc kĩ phần cuối là Minh Đạo Luận. Tôi cứ suy đi tính lại, định bỏ phần đó, không đưa cho cha tôi. Nhưng rồi lại nghĩ: cuốn sách đó là cả đời tâm huyết của ông, nếu thiếu đoạn cuối cùng, cuốn sách sẽ khập khiễng, bất nhất. Và điều đó chắc ông chẳng bằng lòng...

Sử Văn Hoa tươi cười vái tạ:

- Xin cảm ơn quan Kiểm pháp, cảm ơn người tri kỉ đầu tiên của tôi. Xin chớ áy náy. Quyển sách này là của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm đến từng chữ một.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay