Pháo đài số - Chương 063 ---> 068

Chương 63

Chiếc xe vespa mà Becker mới mua lăn bánh khó nhọc trên con đường dẫn đến sân bay Sevilla. Các khớp ngón tay của anh trắng bệch, rã rời suốt đoạn đường. Kim đồng hồ của anh chỉ quá số 2 giờ sáng một chút theo giờ địa phương.

Khi anh đến sảnh đợi chính ở sân bay, anh phi xe lên hè và lao ra khỏi xe trong khi nó vẫn đang rồ ga. Chiếc xe trượt loảng xoảng trên vỉa hè, tiếng ga vẫn kêu cho đến khi dừng hẳn. Becker va mạnh vào miếng cao su khi đi qua cửa quay. Lần duy nhất trong đời, anh tự thề.

Sảnh đợi vắng tanh và sáng trưng. Nếu không có người quét dọn đang đi lau sàn thì nơi này hoàn toàn không một bóng người.

Phía bên kia phòng đợi, một nhân viên bán vé đang cất biển bán vé của hãng hàng không Iberia. Anh cảm thấy đây là một điều xấu.

Anh chạy tới:

- Tôi muốn bay sang Mỹ?

Người phụ nữ Ardaluxia quyến rũ đằng sau quầy thu ngân nhìn lên và mỉm cười đay vẻ hối tiếc.

- Ông vừa lỡ mất chuyến bay.

Câu nói của cô bán vé lơ lửng hồi lâu trên không trung.

Mình đã lỡ mất chuyến bay. Hai vai Becker sụp xuống.

- Còn chỗ trống nào trên chuyến bay không?

- Còn rất nhiều. - Người phụ nữ trả lời - Hầu hết các chỗ đều bỏ trống. Nhưng chuyến 8 giờ sáng ngày mai cũng có.

- Tôi muốn biết một người bạn của tôi có bay chuyến vừa rồi không. Cô ấy mua vé dự trữ.

- Xin lỗi ngài. Đêm nay có một vài hành khách đi vé dự trữ nhưng theo điều khoản về giữ bí mật của chúng tôi thì… - Người phụ nữ cau mày trả lời.

- Chuyện này rất quan trọng - Becker cố thuyết phục - Tôi chỉ cần biết người bạn của tôi có đi hay không thôi. Tất cả chỉ có thế.

Người phụ nữ gật đầu tỏ vẻ cảm thông.

- Anh cãi nhau với bạn gái à?

Becker suy nghĩ một hồi rồi cười ngượng ngùng.

- Cô thấy rõ điều đó mà!

Cô bán vé nháy mắt thông cảm với Becker.

- Tên cô ấy là gì?

- Megan - anh buồn bã trả lời.

Người bán vé mỉm cười.

- Bạn gái anh có họ không?

Becker thở dài nặng nhọc.

- Có chứ, nhưng tôi không biết - Sự thực thì chuyện rất rắc rối. Cô vừa nói máy bay gần như trống. Hay là cô có thể…

- Nếu không có họ thì tôi không thể….

- Thực ra - Becker ngắt lời, anh chợt nảy ra một ý và hỏi - Cô đã bao giờ làm việc suốt đêm chưa?

Người phụ nữ gật đầu.

- Tôi đã từng làm việc từ 7 giờ tối đến 7 giờ sáng.

- Thế thì có thể cô nhìn thấy cô ấy. Cô ấy còn rất trẻ. Chỉ khoảng 15 hoặc 16 tuổi gì đó. Tóc cô ấy…

Trước khi thốt ra những lời còn lại Becker mới nhận ra sai lầm của mình.

Mắt người bán vé nheo lại.

- Người yêu của anh mới 15 tuổi ư?

- Không! Becker thốt lên.

- Ý tôi là… Mẹ kiếp. Cô có thể giúp tôi được không, việc này rất quan trọng.

- Xin lỗi anh - người phụ nữ lạnh lùng đáp.

- Sự thực không phải như cô tưởng đâu. Liệu cô có thể…

- Xin chào anh - người phụ nữ kẻo mạnh lưới sắt xuống quầy thu ngân và đi mất vào phòng trong.

Becker rên rỉ và ngước mắt lên trời. Được lắm, David. Được lắm. Anh đưa mắt nhìn quanh phòng chờ. Chẳng còn gì. Chắc hẳn cô bé đã bán chiếc nhẫn đã lên máy bay. Anh chạy vội về phía người bảo vệ. Anh gọi với qua bức tường đệm và hỏi:

- Ông có nhìn thấy một cô bé ở đây không?

Ông lão đưa tay tắt máy.

- Sao?

- Một cô bé - Becker nhắc lại - Mái tóc màu đỏ, trắng và xanh.

Ông bảo vệ cười vang:

- Cô ta xấu thế ư? - Ông lắc đầu và quay lại tiếp tục làm việc.

David Becker đứng lặng giữa phòng đợi sân bay hoang vắng không một bóng người. Buổi tối hôm nay đúng là một tấn hài kịch, toàn những sai lầm. Lời nói của Strathmore lại vang lên trong đầu anh: Đừng gọi điện cho tôi đến khi nào anh tìm được chiếc nhẫn. Một sự suy sụp hoàn toàn bao phủ lấy con người anh.

Nếu Megan đã bán chiếc nhẫn, không cách gì biết được ai đang giữ chiếc nhẫn ấy.

Becker nhắm mắt lại và cố gắng tập trung suy nghĩ. Mình phải làm gì bây giờ? Anh cân nhắc một lát. Trước hết, cần phải nghỉ ngơi sau chuyến đi dài và mệt mỏi.

Chương 64

Susan đứng đó một mình trong Node 3. Node 3 được bao phủ bởi sự yên ắng và một thứ ánh sáng xanh mờ ảo. Nhiệm vụ hiện tại của cô rất đơn giản: Truy cập vào máy của Hale, tìm mã khoá rồi sau đó xoá sạch mọi liên lạc của hắn với Tankado. Và như thế sẽ không còn dấu vết của Pháo Đài Số ở bất kỳ đâu.

Nỗi lo sợ ban đầu của Susan về việc lấy mật khẩu và giải mã Pháo Đài Số lại quấy rầy tâm trí cô. Thật khó tin kết cục lại đơn giản như thế; cô và những đồng sự ở Crypto thật may mắn. North Dakota đột nhiên xuất hiện một cách thần kỳ ngay trước mắt họ và rồi bị nhốt. Vấn đề duy nhất còn lại là David; anh phải tìm ra được mật khẩu còn lại. Susan hy vọng công việc của anh tiến triển tốt đẹp. Đi sâu hơn vào Node 3, Susan cố gắng không suy nghĩ lung tung. Thật kỳ lạ, cảm giác bồn chồn lo lắng lại xuất hiện khi bước tới một nơi đã quá quen thuộc với cô. Mọi thứ ở nơi này trở nên thật lạ lẫm nhưng còn có một điều gì đó khác thường hơn. Susan chợt ngần ngừ và quay lại, nhìn về cánh cửa không hoạt động. Không có lối thoát 20 phút, cô nghĩ thầm.

Khi đến máy của Hale, cô bỗng cảm thấy có mùi gì đó rất kỳ lạ nhất định đây không phải mùi quen thuộc của Node 3. Cô băn khoăn tự hỏi không biết có phải máy khử ion bị hỏng không.

Nhưng thứ mùi thơm này cũng hơi quen quen, gợi cho Susan một cảm giác ớn lạnh và đầy lo lắng. Cô hình dung ra cảnh Hale bị nhốt ở phía dưới trong lò hơi khổng lồ. Liệu anh ta có đốt cái gì dưới đó không nhỉ? Cô đến gần cửa thông gió và ngửi thử. Nhưng mùi không phải từ dưới ấy bay lên.

Susan liếc về phía cửa lưới mắt cáo của ngăn bếp nhỏ. Cô chợt nhận ra mùi hương đó. Nó chính là nước hoa Cologne và… mùi mồ hôi.

Bản năng mách bảo, cô chùn lại, định thần trước những gì cô nhìn thấy. Sau lớp lưới mắt cáo kia là một cặp mắt đang chằm chằm nhìn cô. Trong giây lát, sự thật kinh hoàng làm cô choáng váng.

Greg Hale không hề bị nhốt dưới tầng hầm- hắn đang ở đây, ngay trong Node 3! Hắn đã kịp trốn lên trước khi Strathmore đóng cửa sập. Hắn đủ khoẻ để có thể tự mình mở mọi cánh cửa.

Susan từng nghe nói sự kinh hãi có thể khiến người ta đờ ra… nhưng ngay lúc này cô biết điều đó hoàn toàn không đúng. Trong khi đang suy nghĩ để hiểu ra mọi chuyện thì cô cũng có thể đồng thời phản ứng được. Cô lùi về phía sau trong bóng tối với một ý nghĩ duy nhất trong đầu: trốn thoát.

Tiếng đổ vỡ loảng xoảng vang lên đằng sau cô. Hale đã lặng lẽ ngồi trên lò sưởi tự bao giờ, hai chân duỗi dài như hai phiến gỗ nặng trịch. Cánh cửa bị giật tung khỏi bản lề. Hắn nhảy vào phòng và hùng hổ sải bước về phía Susan.

Susan giật vội cây đèn bàn đằng sau, định ngáng chân Hale khi hắn tiến gần về phía cô. Nhưng cô thấy hắn nhảy qua nhẹ như không. Hale đang nhanh chóng tiến lại gần cô.

Khi cánh tay phải của hắn vòng qua eo cô từ phía sau, Susan cảm thấy như bị kẹp bởi một thanh sắt. Cô thở hắt ra trong đau đớn. Bắp tay hắn co lại ghì chặt lấy lồng ngực cô.

Susan kháng cự và bắt đầu giãy giụa điên cuồng. Khuỷu tay cô đập mạnh vào xương sụn ở mũi Hale. Hắn buông cô ra, hai tay ôm lấy mũi. Hắn quỳ gối xuống, bàn tay khum lại che hết khuôn mặt.

- Cái đồ… - Hắn hét lên trong đau đớn.

Susan lao về phía thanh chắn cửa, cầu nguyện trong vô vọng rằng đúng lúc này Strathmore sẽ khôi phục lại được nguồn điện và cửa sẽ bật mở. Nhưng không, cô va mạnh vào cửa kính.

Hale lết lại gần cô, mũi hắn bê bết máu. Tức khắc, hai bàn tay hắn lại ghì lấy cô, một tay đè chặt lên ngực trái còn tay kia tóm vào hông. Hắn giật mạnh cô ra khỏi cửa.

Susan hét lên, bàn tay giơ lên cố gắng chặn hắn lại nhưng vô ích. Hắn kéo cô về phía sau, khoá thắt lưng của hắn chọc vào xương sống cô, không thể tin nổi hắn lại khoẻ đến thế. Hắn kéo lê Susan trên thảm khiến giầy bị tuột ra khỏi chân cô. Chỉ cần một động tác, Hale nhấc bổng cô lên và ném mạnh cô xuống sàn ngay cạnh máy tính của hắn.

Lưng của Susan bị đập đột ngột xuống sàn, váy cô bị kéo xô lên đến tận hông. Khuy áo trên cùng bị bật tung, lồng ngực phập phồng trong ánh sáng xanh le lói. Susan ngước mắt nhìn Hale chòng chọc trong nỗi sợ hãi vì bị hắn ngồi đè lên người. Cô không giải mã nổi cái nhìn trong ánh mắt hắn. Ánh mắt ấy như một nỗi sợ hãi. Hay một cơn tức giận? Cặp mắt của hắn dán chặt vào người Susan. Một nỗi sợ hãi, hoảng loạn mới lại ập đến với cô.

Hale ngồi xuống, dận mạnh xuống hông Susan, nhìn cô chằm chằm với ánh mắt băng giá. Tất cả những ngón đòn Susan từng được học để tự vệ loé lên trong đầu cô. Cố gắng chống cự, nhưng cơ thể cô không thể nào nhúc nhích nổi. Toàn thân của cô đã bị hắn làm cho tê liệt. Susan nhắm mắt.

- Ôi Chúa ơi. Không!

Chương 65

Brinkerhoff tiến đến phòng làm việc của Midge.

- Không ai có thể qua mặt được Gauntlet. Điều đó là không thể!

- Sai rồi - Midge phản bác. - Tôi vừa nói chuyện với Jabba. Ông ấy nói năm ngoái ông ấy đã lắp đặt một thiết bị chuyển mạch.

Ánh mắt người trợ lý đầy vẻ nghi ngờ.

- Tôi chưa từng nghe nói đến điều đó.

- Không ai biết. Đó là bí mật.

- Midge - Brinkerhoff phản đối - Jabba tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc an ninh! Ông ấy sẽ không bao giờ lắp vào một thiết bị chuyển mạch để qua mặt…

- Strathmore buộc ông ta làm điều đó - Midge ngắt lời.

Brinkerhoff có thể hiểu được hầu hết những ý nghĩ trong đầu bà ta.

- Anh còn nhớ năm ngoái không? - Midge hỏi - Khi Strathmore đang theo dõi nhóm khủng bố chống lại Xê-mít ở Califomia đó không?

Brinkerhoff gật đầu. Vụ đó được coi là một trong những việc làm táo bạo của Strathmore vào năm ngoái. Dùng TRANSLTR để giải một mật mã bị chặn, Strathmore đã lật tẩy âm mưu đánh bom một trường Do Thái ở Los Angeles. Ông ta đã giải mã được thông điệp của bọn khủng bố chỉ 12 phút trước khi quả bom phát nổ, và chỉ bằng một vài cuộc gọi nhanh, ông đã cứu được 300 em học sinh.

- Nghe này - Midge hạ thấp giọng - Jabba nói Strathmore bắt đầu giải mã thông điệp đó 6 giờ đồng hồ trước khi quả bom phát nổ.

Brinkerhoff há hốc miệng hỏi lại:

- Thế… tại sao ông ta phải đợi…

- Bởi vì ông ta không thể chuyển file cho TRANSLTR giải mã. Ông ta đã cố, nhưng Gauntlet từ chối lệnh. Mật mã đó được viết bằng một thuật toán chìa khoá công khai nào đó mà máy lọc chưa gặp bao giờ. Jabba đã phải mất gần 6 tiếng để điều chỉnh các máy lọc.

Brinkerhoff sững người khi nghe Midge nói ra điều này:

- Strathmore giận dữ. Ông ta đã bắt Jabba phải lắp đặt một thiết bị chuyển mạch vòng qua Gauntlet đề phòng trường hợp tương tự xảy ra - Midge nói thêm.

- Chúa ơi! - Brinkerhoff kêu lên - Sao tôi không hề biết gì hết? Ý bà là gì?

- Tôi nghĩ hôm nay Strathmore đã dùng thiết bị chuyển mạch đó để xử lý một file bị Gauntlet từ chối.

- Vậy ư? Đây chính là mục đích sử dụng cái thiết bị chuyển mạch ấy, đúng không?

Midge lắc đầu.

- Không đúng nếu file đang bị nghi ngờ là một virus?

Brinkerhoff dựng người.

- Virus? Không ai nói gì về virus cả!

- Đó là cách giải thích duy nhất - Midge tiếp lời. Jabba nói virus là lý do duy nhất khiến cho TRANSLTR vận hành lâu đến vậy, cho nên…

- Đợi đã! - Brinkerhoff làm ra vẻ bình thản - Strathmore nói mọi thứ đều ổn cả.-

- Ông ta nói dối.

Brinkerhoff hoang mang.

- Ý bà là Strathmore cố ý đưa virus vào TRANSLTR?

- Không - Midge phản bác - Tôi không nghĩ ông ta biết cái file đó chính là virus. Tôi cho rằng ông ta đã bị lừa.

Brinkerhoff không nói thêm được lời nào. Nhất định Midge Milken thật sự sai lầm rồi.

- Cách giải thích này rất có lý - Midge quả quyết.

- Nó lý giải tất cả những gì ông ta làm ở trong đó suốt đêm.

- Tự cấy virus vào máy tính của mình ư?

- Không! Cố gắng che giấu sai lầm của mình. Và bây giờ ông ta không thể huỷ lệnh vận hành TRANSLTR và lấy lại nguồn điện dự trữ bởi vì virus đã làm tất cả các bộ xử lý bị khoá! - Midge tức giận nói.

Mắt Brinkerhoff mở thao láo. Trước kia Midge đã nhiều lần bị lú lẫn, nhưng chưa lần nào như thế này. Anh cố gắng trấn tĩnh Midge.

- Có vẻ như Jabba không hề lo lắng.

- Jabba là đồ ngu xuẩn - Midge rít lên.

Brinkerhoff vẻ mặt đầy kinh ngạc. Chưa có ai dám gọi Jabba là đồ ngu xuẩn- đồ con lợn thì có chứ đồ ngu xuẩn thì chưa bao giờ.

- Bà tin vào linh cảm phụ nữ hơn cả trình độ của Jabba về lập trình chống xâm nhập hay sao?

Midge nhìn Brinkerhoff đầy tức giận.

Brinkerhoff giơ tay đầu hàng.

- Thôi được rồi. Tôi rút lại lời vừa nói - Không cân nhắc, Brinkerhoff đã biết về khả năng linh cảm tai hoạ phi thường của Midge.

- Midge - anh ta hạ giọng - Tôi biết bà căm ghét Strathmore nhưng…

- Vấn đề không liên quan gì đến Strathmore! - Midge được đà lấn tới - Điều đầu tiên chúng ta cần làm là xác nhận xem Strathmore có qua mặt Gauntlet hay không. Sau đó chúng ta sẽ gọi điện cho ngài giám đốc.

- Được lắm - Brinkerhoff kêu lên.

- Tôi sẽ gọi Strathmore và yêu cầu ông ta gửi cho chúng ta bản báo cáo đã được ký xác nhận.

- Không - Midge đáp lại, lờ đi giọng chế nhạo của Brinkerhofí.

- Ngày hôm nay Strathmore đã lừa dối chúng ta một lần - Midge đưa mắt nhìn lên, tìm kiếm ánh mắt của Brinkerhoff.

- Anh có chìa khoá văn phòng của Fontaine không?

- Đương nhiên là có. Tôi là trợ lý riêng của ông ấy mà.

- Tôi cần chìa khoá đó.

Brinkerhoff nghiêm mắt nhìn đầy vẻ hoài nghi.

- Midge, tôi không thể để bà vào văn phòng của ngài Fontaine được.

- Anh phải làm điều đó! - Midge lên giọng yêu cầu. Bà ta quay lại và gõ gõ vào bàn phím máy chủ.

- Tôi ra lệnh tìm danh sách các tệp tin đợi giải mã bằng TRANSLTR. Nếu Strathmore điều khiển thủ công để qua mặt Gauntlet thì điều đó sẽ được hiển thị trong bản in.

- Điều đó thì có liên quan gì đến phòng làm việc của ngài Fontaine?

Midge quay người lại lườm Brinkerhoff.

- Danh sách các hoạt động lần lượt của TRANSLTR chỉ in được ở máy in của ngài Fontaine thôi. Anh biết rõ điều đó!

- Đó là vì nó đã được phân loại, Midge!

- Đây là trường hợp khẩn cấp. Tôi cần xem danh sách đó.

Brinkerhoff đặt tay lên hai vai Midge.

- Midge, bình tĩnh nào. Bà biết thừa tôi không thể…

Midge bực tức quay người trở lại phía bàn phím.

- Tôi đang ra lệnh in danh sách đó. Tôi sẽ chỉ đi vào, lấy bản in rồi đi ra. Đưa chìa khoá đây cho tôi!

- Midge….

Midge gõ lệnh xong rồi quay lại với Brinkerhoff.

- Bản báo cáo chỉ in trong có 30 giây. Chúng ta thoả thuận. Anh đưa cho tôi chìa khoá. Nếu thực sự Strathmore đã qua mặt Gauntlet, chúng ta sẽ gọi ngay bảo vệ. Còn nếu tôi sai, tôi sẽ ra đi, và anh có thể làm gì thì làm - Mụ ta ném cái nhìn đầy thù hằn về phía Brinkerhoff và giơ tay ra chờ chìa khoá. Mụ ta nói - Tôi đang đợi đây.

Brinkerhoff rên rỉ, hối hận vì mình đã gọi Midge quay trở lại để kiểm tra bản báo cáo Crypto. Anh ta đưa mắt nhìn cánh tay đang chìa ra trước mặt.

Bà đang nói đến thông tin đã được phân loại trong máy chủ của ngài giám đốc. Thế bà không nghĩ ngộ nhỡ chúng ta bị bắt quả tang thì sao?

- Ngài giám đốc đang ở Nam Mỹ.

- Tôi xin lỗi. Tôi không thể - Brinkerhoff khoanh tay đi ra ngoài.

Midge lườm theo, đôi mắt như muốn bốc cháy.

- Ô không, anh có thể chứ - mụ ta lẩm bẩm. Nói rồi mụ quay lại với máy chủ và mở các file ghi hình ra xem.

Midge sẽ bình tĩnh lại, Brinkerhoff vừa ngồi xuống bàn vừa tự nhủ và kiểm tra cẩn thận nốt phần còn lại của bản cáo cáo. Anh ta không thể nào đưa chìa khoá phòng giám đốc cho Midge khi mụ ta đang trong cơn điên được.

Anh ta vừa mới bắt đầu công việc kiểm tra lỗi của COMSEC thì suy nghĩ bị cắt ngang bởi tiếng giọng nói vẳng ra từ phòng bên kia.

Brinkerhoff ngừng tay và đi ra phía cửa.

Cả dãy nhà chính chìm trong bóng tối - ngoại trừ một tia sáng xám đục, yếu ớt lọt ra từ phía cửa phòng mở hé của Midge. Anh ta lắng tai nghe. Giọng nói lại tiếp tục vang lên. Tiếng một vài người gọi to "Midge?"

Không ai trả lời.

Anh ta rảo bước xuyên qua bóng tối đi về nơi làm việc của Midge. Giọng nói nghe hơi quen quen. Brinkerhoff đẩy cửa vào.

Căn phòng trống rỗng. Ghế của Midge trống không. Âm thanh vọng ra từ phía trên. Brinkerhoff nhìn lên máy ghi hình và trong giây lát thấy lạnh buốt xương sống. Tất cả 12 màn hình đều chiếu cùng một hình ảnh - giống như một điệu múa ba lê đã được dàn dựng sẵn. Brinkerhoff lùi dần về phía ghế ngồi của Midge, vừa quan sát vừa hoảng sợ.

- Thế nào? - giọng nói cất lên ngay đằng sau.

Brinkerhoff quay phắt người lại và cố nhìn vào bóng tối. Midge đang đứng trong góc khuất phía bên kia khu vực lễ tân của dãy nhà chính đối diện với cửa đôi của phòng giám đốc. Bàn tay mụ ta chìa thẳng ra.

- Chìa khoá, Chad! - mụ hỏi Brinkerhoff.

Brinkerhoff phát hoảng. Anh quay lại phía máy chủ, cố gắng ngắt những hình ảnh trên máy phát nhưng vô hiệu. Hình ảnh của anh ta có trên tất cả các màn hình, đang rên rỉ trong hoan lạc, tay mơn trớn hai bầu vú của Carmen Huerta.

Chương 66

Becker đi qua phòng chờ của sân bay về phía dãy nhà vệ sinh nhưng chỉ nhìn thấy cánh cửa có khắc ở ngoài dòng chữ CABALLEROS (1) bị chặn bởi một cái tháp màu da cam và chiếc xe vệ sinh chất đầy chất tẩy rửa và giẻ lau sàn. Anh đưa mắt nhìn cánh cửa bên cạnh. DAMAS(2). Anh tiến lại gần và gõ mạnh vào cửa.

(1) Dành cho nam - tiếng Tây Ban Nha (Người dịch)

(2) Dành cho nữ - tiếng Tây Ban Nha (Người dịch)

- Có ai không? - anh gọi rồi hé mở cánh cửa phòng nữ - Cho phép tôi?

Không có tiếng trả lời. Im lặng.

Và anh bước vào.

Phòng vệ sinh, vuông vắn như phòng làm việc, và đúng kiểu Tây Ban Nha, gạch lát màu trắng, bóng đèn sáng rực ngay trên đầu.

Như mọi nhà vệ sinh khác, ở đây cũng có một bồn cầu và một bồn tiểu. Liệu những bồn tiểu trong phòng vệ sinh nữ có được người ta dùng đến hay không, không quan trọng - lắp cả hai bồn vào cùng một phòng góp phần làm giảm giá thành (người ta tiết kiệm được một phòng). Becker quan sát phòng vệ sinh vẻ ghê tởm. Căn phòng bẩn thỉu, dơ dáy. Bồn rửa bị tắc, nước bên trong nâu vàng, đục ngầu. Giấy chùi bẩn thỉu vung vãi khắp nơi. Dưới sàn ngập nước.

Chiếc máy làm khô tay treo trên tường đã cũ kỹ, rỉ hoen, đầy dấu vân tay và hơi ngả màu xanh lục.

Becker đi đến trước gương và thở dài. Cặp mắt thường ngày luôn tinh anh, đêm nay không còn được như vậy nữa. Mình đã chạy đi chạy lại khắp nơi bao nhiêu lâu rồi nhỉ? Anh tự nhủ. Bài toán đã vuột khỏi tay anh. Quên hẳn thói quen của một giáo sư, anh hất chiếc cà vạt được thắt kiểu Windsor lên vai rồi quay lại bồn tiểu phía sau.

Vừa đứng anh vừa băn khoăn tự hỏi không biết Susan đã về nhà chưa. Cô ấy có thể đi đâu được nhỉ? Chẳng lẽ cô ấy đi Stone Manor mà không có mình đi cùng ư?

- Này! - Giọng của một phụ nữ phía sau anh vang lên giận giữ.

Becker khựng người lại.

- Tôi… Tôi đang… - Anh lắp bắp, vội vàng kéo khoá quần - Tôi xin lỗi… Tôi….

Becker quay người lại, đối diện với cô gái vừa bước vào. Cô gái còn trẻ, thuộc lớp người thời thượng, trông như vừa bước ra khỏi tờ tạp chí tuổi mười bảy. Cô ta mặc một chiếc quần kẻ sọc ô vuông, kín đáo và một chiếc áo cánh màu trắng, không có tay. Trên tay cô cầm một chiếc khăn len thô màu đỏ hiệu L. L. Bean. Mái tóc vàng của cô được chải sấy rất cẩn thận.

- Tôi xin lỗi! - Becker cài lại thắt lưng.

- Phòng nam bị… dù sao thì. Tôi đi ngay đây.

- Mẹ kiếp! Đồ dở hơi!

Becker giả bộ kinh ngạc. Những lời báng bổ, tục tĩu chui ra từ đôi môi cô gái có vẻ không hợp - như thể rác rưởi chui ra từ chiếc bình sạch sẽ, tao nhã. Nhưng khi Becker chăm chú quan sát cô ta, anh nhận thấy cô gái ấy không phải tao nhã và sạch sẽ như anh nghĩ lúc đầu. Đôi mắt cô ta sưng húp và đỏ ngầu, tay trái thì bị sưng tấy. Bên dưới vết tấy đỏ trên cánh tay, da thịt cô gái tái nhợt.

Lạy chúa, Becker nghĩ thầm. Tiêm chích ma tuý chăng. Ai mà biết được?

- Ra khỏi đây! - cô ta quát hét lên - Đi ra ngay!

Trong giây lát, Becker bỗng quên đi tất cả, quên chiếc nhẫn, quên Cơ quan An ninh Quốc gia, tất cả mọi thứ. Tâm trí anh giờ đây chỉ tập trung vào cô gái trẻ kia. Có lẽ bố mẹ cô ta gửi cô ta sang đây với một khoá học dự bị nào đó và một thẻ VISA - còn cô ta ở đây, kết liễu cuộc đời bằng cách một mình trong phòng tắm giữa đêm khuya đế hút hít ma tuý.

- Cô không sao chứ - Anh vừa hỏi vừa lùi lại đằng sau về phía cửa.

- Tôi không làm sao hết - Giọng cô ta đầy vẻ ngạo mạn - Ông đi được rồi đấy!

Becker quay người lại để đi. Anh nhìn cánh tay cô gái lần cuối với ánh mắt đầy vẻ thương hại. David, mày chẳng giúp gì được đâu. Để mặc cô ta - Anh ta nghĩ.

- Đi ngay! - cô gái gào lên.

Becker gật đầu. Anh vừa đi vừa nở nụ cười thương hại.

- Hãy cẩn trọng.

Chương 67

- Susan? - Hale thở hổn hển, mặt cúi sát mặt cô.

Anh ta ngồi, một chân kẹp bên sườn cô còn cả người đè lên cơ thể cô. Xương cụt của anh ta chọc mạnh vào xương mu xuyên qua lớp vải mỏng khiến cô đau đớn. Mũi Hale nhỏ máu lên khắp người cô Susan cảm thấy buồn nôn trong cổ họng. Hai tay anh ta đè mạnh lên ngực cô.

Susan vô cảm. Anh ta đang chạm vào cơ thể mình. Một lát sau Susan mới nhận ra Hale đang cài lại khuy áo ngực cho cô:

- Susan! - Hale hốn hển, giọng gần như tắc thở - Cô phải đưa tôi ra khỏi đây.

Susan đang trong tình trạng mê man, choáng váng. Cô không còn có cảm giác gì nữa.

- Susan, cô phải giúp tôi! Strathmore đã giết Chartrukian! Tôi đã tìm thấy!

Phải một hồi lâu sau những lời Hale nói mới lọt vào đầu Susan.

Strathmore giết Chartrukian ư? Rõ ràng Hale không hề biết Susan đã nhìn thấy anh ta ở dưới tầng hầm.

- Strathmore biết tôi đã nhìn thấy ông ta! - Hale khạc nhổ - Rồi ông ta cũng sẽ giết tôi!

Nếu như Susan không bị nghẹt thở vì sợ hãi thì cô đã cười vào mặt anh ta rồi. Cô nhận rõ đòn tâm lý chia cắt-và-chinh phục của anh ta, một cựu lính thuỷ. Bịa đặt, dựng chuyện khiến cho quân của đối phương tự chia rẽ, mâu thuẫn với nhau.

- Đó là sự thật! - Hắn gào lên - Chúng ta phải thoát khỏi đây! Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều đang gặp nguy hiểm!

Cô không hề tin những lời Hale nói, dù chỉ một từ.

Đôi chân cơ bắp của Hale bị chuột rút, hắn gập người xuống, khẽ di chuyển cơ thể. Hale mở mồm, định nói điều gì đó nhưng không kịp.

Khi người Hale nhấc lên, Susan cảm thấy vòng kìm kẹp đã lùi xuống phía chân cô. Trước khi cô kịp nhận thấy chuyện gì đã xảy ra, phản xạ bản năng đã thình lình khiến Susan co chân đạp mạnh vào háng Hale. Cô cảm nhận thấy đầu gối mình đập mạnh vào hạ bộ của Hale.

Hale rên rỉ trong đau đớn và từ từ đổ gục. Anh ta gập người xuống một bên và cuộn tròn người lại đồng thời ôm lấy chỗ vừa bị Susan thúc phải. Susan xoay người thoát khỏi cái tấm thân bị thịt của Hale. Cô khập khiễng đi về phía cửa dù biết rằng mình không bao giờ đủ sức để đẩy cửa ra ngoài.

Quyết định trong giây lát, Susan cúi xuống, tì người vào sau bàn họp và ấn mạnh chân xuống thảm. May thay, chiếc bàn có chân. Cô dồn hết sức lực đẩy bàn về phía bức tường kính hình vòng cung. Chân bàn phát huy tác dụng và chiếc bàn chuyển động dễ dàng. Đấy được nửa đường, cô gắng hết sức chạy nước rút.

Cách bức tường kính chừng 16 mét, Susan gồng hết sức đẩy chiếc bàn và thả tay ra. Cô nhảy sang một bên rồi nhắm nghiền mắt lại. Sau tiếng kính đổ vỡ loảng xoảng, bức tường bị phá tung thành từng mảnh kính nhỏ. Lần đầu tiên kể từ khi xây dựng, mọi âm thanh của Crypto lọt được vào Node 3.

Susan ngước nhìn lên. Qua lỗ hổng lởm chởm toàn thuỷ tinh sắc nhọn, cô nhìn thấy chiếc bàn. Nó vẫn đang trượt. Chiếc bàn xoay tròn một vòng rộng, trượt trên sàn nhà trung tâm Crypto và cuối cùng biến mất trong bóng tối.

Susan dậm gót giày Ferragamo dưới chân, liếc nhìn Greg Hale đang quằn quại trên sàn và cô lao qua đống kính thuỷ tinh vỡ vụn, nhảy sang sàn Crypto.

Chương 68

- Thế này chẳng phải dễ hơn sao - Midge nhếch mép khinh bỉ khi Brinkerhoff đưa cho mụ ta chìa khoá phòng làm việc của Fontaine.

Brinkerhoff chán nản, quy xuống.

- Tôi sẽ xoá đoạn phim hay trước khi ra về. Trừ khi anh và vợ anh muốn giữ nó để đưa vào bộ sưu tập riêng - Midge hứa.

- Chỉ được lấy bản in chết tiệt đó thôi. Sau đó đi ra ngay! - Brinkerhoff giận dữ đáp lại.

- Vâng, thưa ngài! - Midge chọc tức bằng thứ giọng đặc chất Puerto Rico. Mụ nháy mắt và đi thẳng về phía dãy nhà dẫn đến phòng của ngài Fontaine.

Phòng làm việc riêng của Leland Fontaine trông chẳng có gì khác biệt so với những phòng còn lại trong khu nhà giám đốc. Ở đây không có tranh ảnh, không có ghế đệm, không cây cảnh, không có cả đồng hồ cổ. Không gian phòng của ông giám đốc được tố chức hợp lý và hiệu quả. Chiếc bàn kính và chiếc ghế da màu đen của ông được đặt ngay trước khung cửa sổ khổng lồ trông như một bức tranh. Ba chiếc tủ đựng tài liệu được dựng trong góc ngay cạnh một bàn nhỏ trên đặt một bình đựng cà phê ép của Pháp. Trăng đã lên cao quá nóc toà Fort Meade. Ánh trăng dịu nhẹ xuyên qua ô cửa sổ làm nổi bật nét bình dị của cách bài trí và nội thất phòng ông giám đốc.

"Mình đang làm cái quái gì ở đây thế nhỉ?", Brinkerhoff băn khoăn tự nhủ.

Midge bước lại gần máy in và chộp lấy danh sách. Mụ liếc mắt trong bóng tối.

- Tôi không đọc được dữ liệu! - Midge phàn nàn.

- Bật điện lên đi.

- Bà ra ngoài rồi đọc. Nào đi thôi.

Nhưng rõ ràng Midge đang cố tình giễu cợt. Mụ đùa giỡn với Brinkerhoff, mụ tiến về phía cửa sổ và nghiêng nghiêng bản in để đọc cho rõ.

- Midge….

Mụ ta vẫn cứ đọc.

Brinkerhoff tức giận đi về phía cửa ra vào.

- Midge… đi thôi. Đây là khu vực riêng của ngài giám đốc.

- Nó chỉ ở đâu đấy quanh đây thôi! - Mụ lẩm bẩm cầm bản in ngó ngó xem xem.

- Strathmore đã qua mặt Gauntlet. Tôi biết mà - Midge tiến gần hơn về phía cửa sổ.

Brinkerhoff bắt đầu toát mồ hôi. Còn Midge thì vẫn cứ đọc.

Một vài phút sau mụ ta há hốc miệng nói:

- Tôi biết ngay mà! Strathmore đã làm điều đó! Chính ông ta đã làm! Đồ ngu! - Mụ giơ tờ giấy lên, lắc lắc - Ông ta đã qua mặt Gauntlet! Nhìn xem!

Brinkerhoff điếng người, lặng đi một hồi rồi sau đó chạy nhanh vào trong phòng ngài giám đốc đến bên cửa sổ nơi Midge đang đứng Midge chỉ vào cuối danh sách. Brinkerhoff nghi ngờ và đọc.

- Cái này là…?

Nội dung tờ giấy vừa in là danh sách của 36 file cuối cùng đã qua TRANSLTR để xử lý. Sau mỗi file đều có mã kiểm tra của Gauntlet gồm 4 số. Tuy nhiên file cuối cùng trên trang giấy không hề có mã kiểm tra - chỉ ghi mỗi dòng chữ. VẬN HÀNH THỦ CÔNG.

Chúa ơi, Brinkerhoff ngẫm nghĩ. Midge lại cáu kỉnh.

- Đúng là đồ ngu! - Midge sôi lên, giọng lắp bắp - Nhìn đây này?

Gauntlet từ chối file 2 lần! Chuỗi kí tự tuần hoàn! Nhưng rồi ông ta vẫn qua mặt! Ông ta đang nghĩ cái quái gì thế?

Brinkerhoff khuỵu gối. Anh ta băn khoăn không hiểu tại sao Midge luôn đúng. Cả hai người đều không để ý đến một bóng người chiếu từ đâu lại hiện trên cửa sổ bên cạnh họ. Một vóc dáng khổng lồ đang đứng ngay ở cửa ra vào phòng làm việc của Fontaine.

- Sao? - Brinkerhoff hụt hơi - Bà cho rằng chúng ta bị virus ư?

Midge thở dài:

- Còn bị gì được nữa đây.

- Bị gì thì cũng không phải việc của bà! - Giọng nói ồm ồm vang lên phía sau họ.

Midge lùi lại phía sau và bị đập đầu vào cửa sổ. Brinkerhoff lật ngược chiếc ghế giám đốc và xoay lại về phía giọng nói kia. Ngay lập tức anh ta nhận ra bóng đen ấy.

- Ngài giám đốc - Brinkerhoff thốt lên. Anh ta bước đến gần và đưa tay ra - Chào mừng ngài đã trở về nhà, thưa ngài.

Người đàn ông có vóc dáng to lớn lờ đi hành động vừa rồi của Midge và Brinkerhoff.

- Tôi… Tôi tưởng… - Brinkerhoff lắp bắp, rụt tay lại - Tôi tưởng ông đang ở Nam Mỹ.

Leland Fontaine nhìn chòng chọc vào người trợ lý của mình với ánh mắt như dao:

- Đúng thế… và giờ tôi đã trở về.