Hồ Quý Ly - Chương 06 - Phần 3

4

Cha tôi có hai bà vợ.
Bà chính thất con một cụ lang nổi tiếng đất Thăng Long: cụ Phạm Công. Bà họ Phạm
chính là mẹ đẻ ra tôi. Mẹ tôi mất khi tôi còn nhỏ. Cha đi bước nữa. Bà thứ thất
ấy là một công chúa nhà Trần.

Chuyện kể lại rằng:
hồi trai trẻ cha tôi là một con người thông minh đĩnh ngộ. Ông học giỏi, lại
chăm đọc sách, có tài ứng đối rất nhanh. Nhờ hai bà cô lúc đó là ái phi của vua
Trần Minh Tông nên cha tôi được một chức quan nhỏ.

Một hôm, trời nóng
bức, vua Minh Tông và triều thần ra chơi hóng mát ở điện Thanh Thử nằm trong vườn
ngự uyển. Trước cửa điện Thanh Thử, người ta trồng một rừng quế, những cây quế
to tỏa bóng mát, thơm phức, làm dịu đi cái oi bức ngày hè. Minh Tông là ông vua
hay chữ. Nhìn rừng quế, ông ngẫu hứng ra ngay một vế câu đối:

Thanh Thử điện tiền, thiên thụ quế

(Trước điện Thanh Thử, ngàn gộc quế)

Các quan tả hữu
nhìn nhau, lúng túng. Toàn những bậc khoa bảng tài danh, nhưng chưa ai kịp nghĩ
ngay được một câu văn hay để đối lại.

Giữa lúc ấy, chàng
trai trẻ Lê Quý Ly, cũng đi theo hầu xin được đối. Một chàng trẻ tuổi, thứ học
trò vô danh, thật quả to gan. Quý Ly quỳ xuống đọc:

Quảng Hàn cung lý, nhất chi mai

(Trong cung Quảng Hàn, một nhành mai)

- Bá quan đều tròn
mắt, phục tài ứng đối mẫn tiệp của cha tôi. “Thiên thụ quế” mà đối bằng “nhất
chi mai” thật là tuyệt. Một cánh rừng hùng vĩ, thơm ngát mà đối bằng một nhành
mai mỏng manh, yểu diệu thật thần tình.

Nhưng người ngạc
nhiên hơn cả là vua Trần Minh Tông. Trăm quan đều không rõ vua có một cô con
gái út vừa thông minh, vừa xinh đẹp. Minh Tông rất yêu quý công chúa út. Vua lại
rất thích bài thơ của đại sư Mãn Giác đời Lý vịnh mùa xuân. Vua cho rằng bài
thơ ấy là một áng thơ tuyệt diệu, hiếm có, nhất là hai câu cuối cùng:

Mạc vị xuân tàn, hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ, nhất chi mai

(Đừng trọng xuân tàn, hoa rụng hết.

Đêm qua, sân trước, một nhành mai).

Minh Tông liền dùng
chữ “Nhất Chi Mai” của câu thơ đặt tên cho cô con gái yêu. Rồi lại xây riêng
cho con một cung điện nhỏ xinh nhưng tráng lệ và gọi là cung Quảng Hàn. Không
hiểu ở đây có sự trùng hợp gì không. Hay chàng nho sinh láu lỉnh đã nghe lỏm được
câu chuyện về cô Nhất Chi Mai nên ngẫu hứng thốt ra vế thứ hai câu đối. Cũng có
thể người thư sinh tài ba ấy đã tơ tưởng đến cô công chúa từ thời xa xưa lắm, bởi
vì hai bà vương phi họ Lê, những sủng phi của vua đều là cô ruột cha tôi.

Công chúa Nhất Chi
Mai tên tục là Huy Ninh, là bạn thời thơ ấu, đồng thời là anh em con cô con cậu
với cha tôi. Vua Minh Tông gả bà cho tôn thất Trần Nhân Vinh. Trong loạn vua
phường chèo, Nhân Vinh bị giết. Vua Nghệ Tông sau đó gả bà cho cha tôi. Ông muốn
dùng quan hệ hôn nhân để gàn chặt cha với nhà Trần.

Như vậy bà Nhất Chi
Mai, một mặt là mẹ kế của tôi, một mặt là bà cô họ của tôi. Bà hiền hậu nhưng yếu
ớt, trái ngược với cha tôi là một con người chắc nịch, đậm, bộ mặt vuông vức có
chòm râu đen nhánh. Cả mẹ tôi, cả bà Nhất Chi Mai đều là những phụ nữ yểu điệu,
mảnh mai. Lúc bà về nhà tôi, bà ôm lấy tôi mà rằng:

- Con đừng sợ. Ta
yêu quý con. Ta sẽ là mẹ của con.

Lúc đó, tôi là một
thằng bé cao ngỏng, gầy gò, có đôi mắt rất to. Hồi đó, mới năm tuổi tôi đã phải
học chữ với một vị lão nho. Ông thầy của tôi uyên thâm nhưng rất nghiêm khắc; cứ
thấy mặt ông là trong tôi như thất thần, toàn thân co rúm lại, chữ học vào trong
đầu lại bật ra. Cha tôi vốn thiên kinh vạn quyển nên rất bực mình, không thể
nào nghĩ được rằng con trai ông mà lại học dốt. Ông nghiêm khắc mắng:

- Làm con trai mà
lười học, sau này sẽ vô dụng.

Bà Nhất Chi Mai cười,
bảo ông:

- Để thiếp dạy
tháng bé cho.

Lạ thay khi học với
bà, tôi học rất nhanh. Hơn một năm sau tôi đã đọc chữ vanh vách. Lên bảy tuổi
đã thuộc lòng sách Đại Học.

Cha tôi thấy mẹ Nhất
Chi Mai dạy tôi học nhanh như vậy, rất hài lòng. Tôi thường bắt gặp ánh mắt
sáng lên của ông mỗi lúc hai mẹ con tôi ngồi học với nhau. Dần dần, tôi yêu quý
bà Nhất Chi Mai, quấn quýt bên bà như mẹ ruột của mình. Có lẽ tôi đã tìm thấy ở
bà những nét mơ hồ giống như mẹ tôi. Tôi nói mơ hồ, bởi vì mẹ tôi chết lúc tôi
còn quá nhỏ. Hình ảnh về người mẹ đẻ chỉ còn là hình ảnh nhòe nhòa của một người
phụ nữ gầy gò, xanh lướt với nét mặt thanh tú và cao thượng, lúc nào cũng nằm
dài trên giường, lặng lẽ, buồn bã nhìn tôi. Đứa bé côi cút ấy đã tìm lại được
tình cảm mẹ con ở bà công chúa.

Song, tình cảm ấy rồi
cũng vụt trôi đi, vì bà Nhất Chi Mai sinh Thánh Ngẫu em gái tôi. Hơn một năm
sau, bà lại sinh em Hán Thương. Bà công chúa cũng hay ốm đau, bà lại phải bận bịu
lo lắng cho hai đứa em; vậy nên cuối cùng bà phải ngừng dạy tôi học.

Thánh Ngẫu còn đỡ.
Cô em gái xinh xắn dễ thương ấy đôi lúc còn nhường mẹ cho tôi. Thỉnh thoảng em
vẫn để bà Nhất Chi Mai âu yếm vuốt ve tôi. Nhưng Hán Thương thật ghê gớm. Cứ mỗi
lần tôi đến gần bà công chúa, nó lại hét to:

- Đi đi! Giả mẹ
đây!

Những lúc như vậy,
lòng tôi như bị xát muối. Tôi tủi thân, nén nỗi tức giận, dìm nó xuống đáy
lòng. Có lẽ đó là lý do đầu tiên làm anh em tôi suốt đời bất hòa; đối địch
nhau, thậm chí có lúc như hận thù nhau. Người ta còn giải thích sự xung dột ấy
theo nhiều cách khác. Có thể, vì Hán Thương là con một bà công chúa, còn tôi là
con một người đàn bà bình thường. Có thể, vì khi lớn lên, Hán Thương đã thầm cảm
thấy ngôi vua nước Nam sẽ về tay mình, nên em tôi đã tranh ngôi báu ngay từ lúc
chiếc ngai vàng còn chưa đến tay. Cũng còn có thể vì Hán Thương giống cha tôi.
Nó cũng khỏe mạnh, cũng cương nghị, cũng đầy tham vọng, cũng quyết đoán như
cha. Còn về phần tôi, tôi là loại người yếu đuối, mặc dù về mặt trí thông minh,
có thể nói, tôi hơn hẳn Hán Thương. Còn cha tôi đối với chúng tôi thì sao? Người
đàn ông cương nghị có thể yêu một người đàn bà yếu đuối, nhưng ít khi có thể
yêu một người đàn ông khác mà tính chất lại yếu đuối. Hơn nữa, cha lại là một
con người lạnh lùng tính toán. Đối với ông, sự nghiệp là điều trên hết; tất cả
phải phục vụ sự nghiệp. Có thể, từ khi chúng tôi còn nhỏ, cha đã lặng lẽ quan
sát hai đứa con, rồi cân nhắc mọi điều lợi hại, để trù biện cho tương lai,
nhưng thôi, đó là chuyện về sau...

Và như tôi đã kể,
cũng vì sinh Hán Thương nên từ dạo ấy, tôi chuyển sang ở trại thuốc cùng với
ông ngoại.

“Chàng ta lúc nào
cũng u buồn! Người ta thường nhận xét về tôi như vậy - Đó là bản tính?” Có thật
đó là bản tính của tôi không? Hay do thời thế, không khí của một thời “thiên
túy” đã ảnh hưởng vào tính đa cảm của tôi? Cũng có thể đó là một sự sám hối - một
cảm giác tội lỗi mà riêng tôi phải chịu đựng, phải gánh vác cho cả dòng họ?
Cũng có thể, do cái chết của Quỳnh Hoa, ngươi vợ yêu quý, người đàn bà đã cho
tôi biết bao hạnh phúc? Tôi đã biết nhiều người đàn bà, nhưng xét về ý nghĩa
sâu sắc, Quỳnh Hoa mới là người đàn bà đầu tiên của đời tôi.

Khi Quỳnh Hoa rời
xa sang thế giới bên kia, tôi mới hiểu tình yêu của nàng với tôi là một điều hiếm
ở đời. Nàng chết, tôi chẳng thấy thiết gì nữa. Tôi đã mất đi một niềm hạnh
phúc, một niềm an ủi vô cùng to lớn, tưởng chẳng có gì thay thế nổi. Tôi lao
vào uống rượu. Tôi lao vào kĩ viện. Người ta bảo tôi lao vào truy hoan để quên
chuyện cũ, nhưng thực lòng tôi dửng dưng thờ ơ với tất cả mọi người đàn bà.

Cha tôi, bà Nhất
Chi Mai đều muốn tôi lấy một người đàn bà khác, nhưng tôi cứ lặng lẽ. Rồi mọi
người không nhắc đến nữa, có lẽ họ thông cảm, muốn để cho thời gian làm nguôi
ngoai nỗi buồn. Người dân Thăng Long vẫn hay hát khúc ca do tôi phóng tác làm
ra:

Phượng hoàng hề

Phường hoàng hề bay vút trời cao!

Nguời xưa, mây cũ nay ở nơi nao

Chỉ thấy nơi đây lâu đài tàn tạ

Chỉ thấy bầu trời vắng trăng sao...

Nhưng ai có biết
đâu con phượng hoàng trong bài ca ấy chính là nàng; và tâm trạng trong bài ca ấy
chính là lòng tôi. Tôi viết bài hát ấy để tặng Quỳnh Hoa, để mỗi lúc cầm cây
đàn nguyệt gẩy lên, những đêm thanh vắng, là bóng nàng lại hiện lên trong tâm
tưởng, để khi thiếp đi lại nghe thấy tiếng thì thầm của nàng bên tai. Có thể
nói, suốt một thời gian dài tôi sống với ảo ảnh, với hồn ma Quỳnh Hoa. Và nhiều
đêm trong giấc mơ, tôi đã giao hoan với hồn ma ấy.

Cứ tưởng rằng, cuộc
sống tình cảm của tôi sau khi Quỳnh Hoa chết là hết. Cứ tưởng rằng chẳng có người
đàn bà nào có thể làm cho trái tim đang ngủ lịm vì đau buồn của tôi có thể thức
dậy. Không ngờ tôi lại gặp Thanh Mai. Cám ơn khu rừng mai của thượng tướng Khát
Chân.

Mới gặp Thanh Mai,
tôi đã bàng hoàng tỉnh giấc. Cứ tưởng như một người đang dụi mắt khi gặp bình
minh, sau một giấc ngủ triền miên. Khi cô hát:

Ai xui câu hát nghiêng nghiêng

Cớ sao con mắt ưu phiền

Chính lúc ấy, tôi tự
nhủ lòng: “Đây chính là người đàn bà của ta.” Sao nàng trông quen thuộc đến thế.
Không biết đã gặp nàng ở đâu? Nhớ mãi chẳng ra. Hay đã gặp nhau ở một tiền kiếp?
Cứ như thể nàng là một phần của xác thân tôi, mà mình cảm thấy vắng thiếu từ rất
lâu nhưng không xác định nổi, nay bỗng dưng phần thiếu ấy hiện ra đột ngột...
Và chẳng cần tra hỏi gì hết, nó nhập ngay vào tôi, làm cho tâm hồn tôi tự dưng
viên mãn, để xóa đi nỗi bâng khuâng nhớ mong do thiếu nó gây ra.

Tại sao vừa mới gặp,
tôi đã quả quyết: “Đây chính là người đàn bà của ta”? Cũng có thể vì những người
đàn bà trong đời sống cung đình, trong dòng họ nhà tôi đều là những người đàn
bà ẻo lả. Kỉ niệm về người mẹ yêu quý của tôi là một người đàn bà xanh lướt,
ngày đêm nằm trên giường bệnh. Bà công chúa Nhất Chi Mai, mẹ kế của tôi có một
sắc đẹp mong manh yểu điệu mà bà hoàng Thánh Ngẫu, em gái tôi, là một bản sao
chép. Còn vợ tôi, quận chúa Quỳnh Hoa, như tôi đã kể là một mảnh đời u sầu khôn
nguôi. Số phận, vóc tạng của hầu hết những người đàn bà quyền quý mà tôi biết đều
như thế cả. Cứ như thể cả một đàn hậu duệ của một dòng họ đang suy tàn, không
thể sản sinh ra những người phụ nữ... đáng gọi là phụ nữ. Hay chăng vì họ là những
loài hoa nuôi trong chậu cảnh đã quá lâu năm, tuy dẹp đấy, nhưng quá mong manh,
thiếu dần nhựa sống. Ngay đến như tôi, một người đàn ông quyền quý. cũng được
chàm bẵm theo cùng một kiểu những người đàn bà nói trên, nên tôi cũng mỏng manh
khác gì họ. Cái tạng nghiệp mong manh ấy có điều hay là làm ta trở nên bén nhạy.

Chắc vì đã quá quen
thuộc với những nét đẹp ỏe oai của loài hoa chậu, nên khi bắt gặp cái đẹp chân
phác của Thanh Mai, tôi nhận thấy ngay sức sống mới mẻ của nó và tôi đâm ra mê
mẩn. Cô kĩ nữ ấy có một tạng nghiệp khác hẳn. Trông thấy cô gái lưng ong ấy ta
thấy bừng ngay lên sự sống. Trông thấy cô là trông thấy màu hồng của da thịt,
thấy sự no tròn viên mãn, thấy ngay cả sự mặn nồng.

Mãi về sau tôi mới
biết Thanh Mai đã có một cuộc sống thật gian truân từng trải. Có thể mới đầu đó
là cô gái thôn dã quê mùa, nhưng cùng với thời gian sự từng trải đã mài dũa,
làm sạch đi những nét thô cứng. Sự khác biệt giữa cô và những người đàn bà cung
đình, đã cho phép tôi nhận diện thấy ngay cái đẹp hiếm hoi. Nhưng nếu là sự
khác biệt đối nghịch chắc hẳn sắc đẹp của cô sẽ rơi vào thô kệch. Đằng này ở cô
vẫn toát ra, vẫn thoáng gặp những nét cao sang. Đó là những cử chỉ tinh tế chỉ
thấy ở những con người ưu tư, đã có lúc do số phận đưa đẩy nên đã trải qua những
quãng đời kiêu sa. Đó là những bước đi khoan thai, tưởng như lười biếng, nhưng
thực ra là sự tự nhiên. Đó là những ánh mắt trong trẻo không bao giờ lộ ra niềm
giận dữ. Đó là sự bình thản khi tiếp xúc với những choáng ngợp giàu sang. Đó là
những nụ cười đôn hậu, làm ta khi nhìn thấy, sẽ quên ngay những mệt nhọc trần
gian. Có phải vì cô là người con gái chuyên nghề đàn hát, nên có lẽ hình như cô
có khả năng làm thức dậy những gì tốt lành trong con người. Tôi có cảm giác như
hé nhìn thấy sự linh cảm, sự thông tuệ và vẻ đẹp cao quý trên gương mặt nàng.
Nhưng... tôi đã mê sảng rồi chăng, tôi đã linh thánh nàng rồi chăng?...

Như tôi đã nói, mới
gập Thanh Mai, tôi đã thấy ngay đây là người đàn bà của đời tôi. Việc đó không
thể lấy lí mà xét được. Đó là tiếng nổ ngang trời đêm giông bão, khi hai con
người bất chợt tìm thấy một nửa mảnh đời của mình, đã trôi dạt tận chân trời
góc biển mịt mùng, nay đột nhiên xuất hiện trước mặt nhau. Cái lí làm sao hiểu
được. Cuộc gặp gỡ trong vườn mai đêm hôm đó như để hoàn tất một cái nghiệp nào
đó mà hai người chúng tôi phải làm cho trọn. Gọi là cái mệnh hoặc nói rằng ma
quỷ đã dẫn đường để tạo nên cuộc gặp gỡ kỳ lạ ấy cũng được.

Có thể hai người
chúng tôi khác nhau, mà cái duyên bắt phải phối kết với nhau để mà hạnh phúc hoặc
để xung đột cấu xé lẫn nhau. Có thể hai người chúng tôi giống nhau nên cuốn hút
lấy nhau để làm trọn cái tình tri kỷ, hoặc để làm sâu đậm thêm một cái nghiệp
mà riêng một người sẽ không gánh vác nổi. Phải chăng số phận chính là như vậy.

Sau buổi tối gặp gỡ
đầu tiên, tôi có cảm tình với Thanh Mai đã đành; ngược lại về phía nàng, tôi
cũng đinh ninh rằng nàng có cảm tình với tôi, thậm chí tôi còn đọc thấy trong
ánh mắt của nàng một cảm tình đặc biệt. Tôi tìm mọi cách để tìm hiểu về nàng.
Chúng chẳng khó khăn gì vì từ mấy tháng nay Thanh Mai là cô gái nổi danh tài sắc
đất kinh kỳ. Các nhà quyền quý ở Thăng Long mỗi khi mở tiệc mừng nhân ngày lễ
thọ, khao vọng hoặc cưới xin đều mời nàng đến hát. Giọng nàng vừa đẹp, vừa
trong vừa điêu luyện. Nàng biết nhiều giọng: giọng nam, giọng bắc, nhất là giọng
lâm li ai oán kiểu Chiêm Thành. Đồn rằng Thanh Mai có một bài hát rất buồn và
hay, tên gọi “Con ngựa Hồ”, nhưng chưa bao giờ nàng hát cho ai nghe. Nhiều
khách phong lưu nài nỉ, nhưng bao giờ Thanh Mai cũng nhũn nhặn từ chối:

- Đó là một kỉ niệm
đau buồn của thiếp, xin ngài rộng tình thông cảm.

Khi nhắc đến bài
hát đó, thường Thanh Mai buồn hẳn đi và mất hứng ca hát, thành thử không ai nỡ
ép. Người ta lại đồn rằng chỉ có một lần Thanh Mai hát bài “Con ngựa Hồ”, đó là
dịp thượng tướng mở tiệc mừng công lúc đại thắng quân Chế Bồng Nga. Chuyện đó xảy
ra đã mấy năm rồi.

Người ta cũng đồn rằng
quan hệ giữa thượng tướng và Thanh Mai rất gần gũi. Thượng tướng nhận cô ta là
con nuôi. Không hiểu đó có phải là thuật của Thanh Mai dùng để làm tăng phẩm
giá của mình lên không. Thực ra, chẳng cần phải là con nuôi của quan Thượng tướng,
mà chỉ cần sắc đẹp, tiếng đàn, giọng hát của riêng mình, cô ta đã cao giá lắm rồi.
Trong các tiệc, mỗi khi cô hát xong một bài, khách khứa, các bậc vương tôn công
tử tung tiền thưởng như mưa, bạc trắng xóa chiếu hoa.

Thanh Mai rất tài sắc
nhưng cũng rất kiêu kỳ. Kĩ nữ đấy nhưng nàng chỉ đàn và hát thôi. Cô ban cho
người đời cả ánh mắt long lanh và nụ cười mê hồn nữa. Song, tất cả chỉ có thế
thôi, đừng ai giở thói bờm xơm. Nhiều bậc vương tôn si tình, nhăm nhe mua cô về
làm thiếp, nhưng tất cả đều bị từ chối. Có kẻ lại dùng cường quyền uy hiếp định
chiếm đoạt cô, lập tức kẻ ấy nhận ngay được lời răn đe của bộ hạ quan thượng tướng.

Đấy cô gái kiêu kỳ
như thế, mà tôi chỉ gặp cô mới một lần, tôi đã đinh ninh rằng cô là người đàn
bà của riêng tôi, rằng cô có biệt nhãn với riêng tôi. Tôi tin chắc thế. Bởi vì
nếu không, tại sao cô ta có thể cảm nhận được những âm thanh tiếng nguyệt cầm của
tôi đêm ấy và phô diễn chúng ra bằng lời.

Ai xui câu hát nghiêng nghiêng

...

Cớ sao con mắt ưu phiền

...

Ai uống hương lan sẽ quên lối về

...

Ai uống hương lan đường vào bến mê.

...