Tình Yêu Trở Lại - Chương 59
Chương 59
Tác giả: Madge Swindells
V ào năm 1962, siêu thị đầu tiên của Paul bắt đầu có một thành công đáng ghi nhận, nhưng cùng lúc này anh cũng nhận ra rằng những đối thủ của mình cũng chẳng còn cách mình bao xa nữa. Sợ rằng họ sẽ nhanh chân thâm nhập Transvaal - một khu vực phát triển phồn thịnh - trước mình, anh vay tiền với một mức lãi nặng từ nhiều ngân hàng thương mại khác nhau và trong vòng mười hai tháng sau đó khai trương thêm ba siêu thị nữa ở vùng ngoại ô Johannesburg. Tất cả đều rất thành công và trong năm 1963, Paul tiến thêm một bước nữa bằng cách bỏ tiền ra mua lại cổ phần của những người cùng hùn vốn trong các cửa hàng bán lẻ thuộc hệ thống Better Buys, và sau đó biến chúng trở thành những siêu thị mới. Tới cuối tháng Sáu năm 1964, Paul đã sở hữu tới chín siêu thị làm ăn phải đạt và đến tháng Mười thì cổ phần của Better Buys lại được tung ra thị trường.
Ngân hàng thương mại đại diện cho Paul đề nghị được bán ra bốn mươi chín phần trăm số cổ phiếu mà anh đang dùng để thế chấp vay tiền và giá của chúng đã nhanh chóng tăng vọt lên tới hơn ba lần. Tất cả các nhà đầu tư ở Johannesburg và ở Đất Mũi tranh giành nhau để được làm cổ đông của Better Buys.
Chỉ mình Paul là hiểu được rằng anh đang ở trong một guồng quay đến chóng mặt của công việc kinh doanh buôn bán và anh phải gắng sức lắm để giữ cho mình không bị chìm nghỉm trong đó. Anh biết rằng chỉ cần dừng lại một phút thôi anh sẽ bị phá sản hoàn toàn. Anh phải luôn theo sát thị trường giá cả để làm sao cho giá bán hàng của mình đánh bại được những đối thủ cạnh tranh khác, nếu không thì những khách hàng trung thành của anh sẽ bỏ anh mà ra đi. Tuy nhiên, nếu có thêm sức của các nhà đầu tư tham gia vào thì nhịp tăng trưởng của Better Buys sẽ vẫn được tiếp tục cải thiện và như vậy có nghĩa là sẽ có thêm nhiều lợi nhuận. Giới hạn mức lãi của Better Buys hiện giờ vẫn còn quá hạn hẹp và chỉ có một cách duy nhất để nới rộng nó ra là bán - bán thêm thật nhiều hàng hóa. Nếu mức độ tăng trưởng mà giảm thì các nhà đầu tư sẽ mất lòng tin và giá cổ phiếu sẽ lập tức hạ xuống ngay. Như vậy thì sẽ thực là một thảm họa bởi vì những cổ phần đó chính là sự thế chấp của anh đối với ngân hàng để vay thêm tiền mở rộng tập đoàn của mình. Bằng mọi cách, giá cổ phiếu phải được tăng lên.
Vòng quay lại càng quay nhanh hơn nữa.
Duy chỉ có một phạm vi là Paul có thể đạt được thắng lợi và đó là với những nhà cung cấp hàng.
Đầu tiên, anh ve vãn họ như một chàng trai ve vãn một cô gái, cho tới khi đã có khả năng thâu tóm được hầu hết đầu ra của họ thì anh bắt đầu siết chặt. Cuối cùng, anh chỉ để lại cho họ một khoản lợi nhuận hết sức nhỏ nhoi gần như không đủ để cho các doanh nghiệp đó tiếp tục hoạt động. “Anh ta đúng là một con người ghê gớm: cho cá sấu châu Phi ăn, rồi sau đó lại ăn thịt chúng”, người ta nhận xét như vậy.
Kurt và Anna cũng thế.
Một buổi sáng Kurt thức dậy và chợt nhận ra rằng bảy mươi lăm phần trăm đầu ra các sản phẩm gia cầm của họ đều đã rơi vào tay của Better Buys. Chẳng bao lâu sau đó Paul thình lình xuất hiện và thông báo một tin làm cho Kurt chết điếng cả người rằng anh ta sẽ hạ giá bán lẻ các sản phẩm gia cầm xuống tới hai mươi lăm phần trăm. Tỷ dụ như trứng, anh ta giải thích, họ đã bán với giá quá cao trong nhiều năm qua. Anh chẳng thấy có lý do gì để Kurt và Anna kiếm được tới hơn mười phần trăm lợi nhuận từ các hoạt động chăn nuôi và chế biến gia cầm cả và anh ta đã tính toán chi ly tới từng xu một những gì mà họ phải chi trả để họ có thể nhận được tối đa là mười phần trăm lợi nhuận. Paul quyết định sẽ rút lại hợp đồng và chờ cho tới khi Kurt chấp nhận mức giá mà anh đặt ra. Cha và con trai lại một lần nữa vướng vào mối cừu hận và lần này xem ra còn gay gắt hơn tất cả những lần trước. Cuối cùng Kurt đành tới gặp Anna, thái độ khúm núm, lưng còng xuống vì đau khổ và ngượng ngập, giải thích với bà về những việc con trai ông đã làm.
Nhưng trước sự kinh ngạc của ông, Anna chỉ mủm mỉm và sau đó phá lên cười ầm ĩ.
- Anh đúng là một lão già ngu ngốc - Bà nói. - Nó chỉ là một đứa trẻ con. Anh đang quá tự ti và đau khổ về mặt tâm lý nên không thể suy xét thấu đáo được vấn đề. Hãy cứ tham gia vào trò chơi của nó, và cư xử như chúng ta với nó là những người xa lạ.
Một tuần sau đó họ chấp thuận bán hàng cho Paul với mức giá thậm chí còn thấp hơn cả giá mà Paul đề nghị sau khi giải thích rằng họ tính sẽ chấp nhận thu lợi nhuận ít đi để bán thêm được nhiều hàng hơn, qua đó nâng doanh thu của mình cao lên. Đổi lại Paul sẽ chỉ được mua hàng của họ và phải chịu trách nhiệm tiến hành một chiến dịch quảng cáo dồn dập kéo dài sáu tháng với các mặt hàng chế biến từ gia cầm hạ giá để khuyến mại. Như vậy bản thân anh trước mắt cũng sẽ không thu được lợi nhuận gì từ những khoản này.
Paul rất ngạc nhiên nhưng cũng hồ hởi hưởng ứng.
Sáu tháng sau, Jack Tassetti, đối thủ cạnh tranh lớn nhất và cũng là duy nhất của Anna và là một cựu thành viên trong cái ủy ban chết tiệt của lão Pietersen trước đây, người đã tham gia vào phi vụ gây cho Anna biết bao đau khổ, đã phải tuyên bố phá sản. Bà mua lại đất đai, chuồng trại và cả đàn gia cầm của ông ta với giá hết sức rẻ mạt và sau đó lại làm cho Paul ngạc nhiên đến sững cả người khi nhận ra rằng chỉ sau một đêm giá trứng đã tăng lên đến năm chục phần trăm. Anh chạy đi khảo giá một vòng nhưng chẳng còn tìm được ai có sẵn một lượng hàng lớn như thế để bán nữa.
Paul đã nhận được một bài học ra trò, anh quyết định sẽ phải thận trọng hơn trong tương lai.
*
* *
Sáu tháng đã trôi qua kể từ ngày cưới của Rosemary, vậy mà cô vẫn hầu như không dám tuyên bố rằng mình hiểu Paul nhiều hơn khi ấy. Họ ngầm thỏa thuận với nhau đóng vai một cặp vợ chồng trẻ tràn đầy hạnh phúc, còn thì thực chất rất ít khi cô gặp được anh bởi vì Paul chỉ chúi đầu vào công việc suốt cả ngày.
Thường thì anh chỉ trở về vào lúc nửa đêm và cuộc sống tình dục của họ diễn ra lén lút vào lúc thanh vắng nhất khi Rosemary đã bắt đầu lơ mơ ngủ, nhưng đó là một hành động vội vã khiến cô càng thêm bối rối và cô đơn hơn. Rosemary thèm khát được yêu, nhưng điều này dường như cô sẽ không bao giờ có được. Cô quyết định gia nhập xã hội thượng lưu ăn chơi tài tử và nhanh chóng bị lôi kéo vào một đám bạn mới cùng với những buổi tiệc tùng liên miên của họ. Tuần nào gương mặt xinh đẹp của cô cũng xuất hiện trên các tờ báo địa phương và luôn là cùng với những người đàn ông khác nhau đi hộ tống.
Paul tỏ ra không quan tâm tới việc cô dùng thời gian của mình vào việc gì chừng nào mà cô còn luôn có mặt khi anh cần đến - và cô luôn thực hiện tốt được điều này.
Ba tuần trôi qua. Trong lễ kỷ niệm một năm ngày cưới của mình, Rosemary nhận được hoa từ gia đình Acker và Margaret, điện thoại của mẹ và thiếp chúc mừng của vô số những người quen biết. Nhưng Paul lại chẳng có gì. Cô gọi điện tới văn phòng của anh.
- Anh yêu, em nghĩ sẽ là rất tuyệt nếu như hôm nay anh trở về nhà sớm, chúng ta sẽ có một bữa ăn tối dành riêng cho hai người. Anh có thể về trước bảy giờ được không?
- Để làm gì? - Giọng anh tỏ vẻ khó chịu vì bị quấy rầy.
- Chà, hôm nay là kỷ niệm một năm ngày cưới của chúng mình mà, - cô rụt rè nói. - Em nghĩ…
- Nhưng hôm nay cũng là ngày làm việc. - Một tiếng “cạch” cụt lủn chấm dứt cuộc đối thoại của họ.
Rosemary đặt ống nghe xuống chậm rãi hơn. Việc gì mà phải khóc nhỉ? Cô tự nhủ, đưa tay quệt ngang má. Mình đã có được đúng thứ mà mình muốn rồi còn gì. Khóc bây giờ là hết sức ngu xuẩn. Ngay lúc này đây Rosemary hiểu rằng cô đã đi vào ngõ cụt. Tiền bạc làm gì, giàu có làm gì khi mà con người ta cảm thấy mình cô độc?
Tối hôm đó cô ở một mình, ngồi trong mảnh sân nhỏ trước nhà, nhìn ra ngoài vịnh. Có rất nhiều sự lựa chọn mở ra trước mắt cô. Cô có thể cặp bồ, nhưng vậy để làm gì khi mà tình yêu của cô chỉ dành cho Paul? Cô có thể hài lòng với những điều vui thú mà của cải mang lại: chiếc du thuyền, những con ngựa, bạn bè, quần áo… - nhưng cô biết rằng như vậy vẫn chưa đủ. Khi đã có trong tay, những thứ ấy vụt trở nên quá tầm thường nhỏ mọn. Đối với cô bây giờ, tình yêu chứ không phải vật chất mới là quan trọng, cô chỉ cần có một người bạn bên mình, người mà cô có thể chia sẻ hết mọi tâm sự thầm kín.
Cô không biết làm cách nào để gần gũi được với Paul hơn, nhưng cô luôn tỏ ra cố gắng hết sức. Ít nhất thì khi Paul trở về, anh luôn thấy Rosemary đang có mặt ở nhà.
Cô cũng bắt đầu theo dõi các hoạt động của anh, nhưng đây là công việc chẳng dễ dàng vì Paul luôn phải chạy đôn chạy đáo từ nơi này sang nơi khác. Cô nhận thấy anh thường vắng nhà vào các buổi tối thứ Sáu và sáng ngày thứ Bảy. Chẳng lẽ anh ấy lại sa vào những thói hư tật xấu như đánh bạc chẳng hạn. Cô đoán vậy, cuối cùng Rosemary nghi rằng có một người đàn bà nào khác đã xen vào giữa cô và Paul, cô quyết định thuê một thám tử tư để tìm hiểu xem anh ở đâu vào những lúc đó.
Bản báo cáo tới sau đó hai tuần và rất ngắn gọn. Vào lúc năm giờ chiều các ngày thứ Sáu, Paul đi tới giáo đường Do Thái và ở lại đó tới tận chín giờ, sau đó anh về nhà. Sáng thứ Bảy anh lại làm đúng như vậy và đôi khi cả chiều thứ Bảy nữa. Còn những ngày lễ thánh anh lưu lại đó suốt cả một đêm cùng với những người Do Thái khác. Họ hỏi cô có muốn tiến hành điều tra tiếp không?
Cô trả tiền, cảm thấy mình thực là ngốc nghếch. Cô ngượng vì điều đó.
Kỳ cục, cô nghĩ. Paul không bao giờ tỏ ra một dấu hiệu gì chứng tỏ anh là người sùng đạo hoặc quan tâm tới Do Thái giáo cả, và nếu đúng như vậy thì tại sao anh lại kết hôn với một người không phải Do Thái? Vera đã từng vô cùng khó chịu với đám cưới này. Bà ta thán vì Paul đã không luân thủ theo các quy định của Do Thái giáo, nhưng anh không hề bận tâm tới vấn đề đó và vẫn luôn tỏ ra yêu quý vợ. Rosemary đoán rằng trong thời thơ ấu của mình anh đã gặp phải một chuyện gì đó vô cùng khủng khiếp và anh đã giữ kín nó trong lòng trong suốt bao nhiêu năm qua. Cô biết rằng mình sẽ không thể gần gũi với Paul được chừng nào mà cô chưa chia sẻ được với anh điều bí mật đó.
*
* *
Rosemary luôn không thích Vera và cô ngờ rằng bà mẹ chồng của mình cũng có chung một cảm giác như vậy, nhưng cuối cùng cô đành vận dụng hết lòng can đảm và tìm tới gặp bà để cầu xin được giúp đỡ.
Nhà của Vera giống hệt một viện bảo tàng với vô số những tác phẩm nghệ thuật được nhồi nhét ở bất cứ chỗ nào có thể. Rosemary căm ghét nó nhưng hôm nay cô lại đang rất quyết tâm với vấn đề của mình và còn định dốc hết bầu tâm sự với Vera.
- Con không biết phải làm gì nữa mẹ ạ, - cô kết thúc. - Có một bức rào chắn không thể nào vượt qua nổi giữa hai vợ chồng con, con sẽ phải sống với một người xa lạ trong suốt phần đời còn lại của mình hay sao? Tồi tệ hơn là con lại rất yêu anh ấy.
Vera lạnh lùng nhìn cô.
- Chị ạ, - cuối cùng bà nói. - Nếu như chị muốn có được một mối ràng buộc tình cảm thì chị phải tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi lấy chồng chứ. Chị đã thâm nhập vào gia đình này bằng cửa sau và bây giờ lại muốn thay đổi mọi chuyện ư? Thế mà tôi cứ ngỡ anh chị là một cặp xứng đôi vừa lứa cơ đấy.
- Mẹ chưa bao giờ thích con cả, phải không? - Rosemary buồn rầu hỏi lại.
- Nói chính xác hơn là tôi chưa bao giờ hiểu chị cả. Paul bảo với tôi rằng đám cưới này là một sự thỏa thuận. Nó cần có một người vợ còn chị cần một người chồng giàu.
Rosemary đỏ bừng mặt.
- Đúng là con có nói như vậy, - cô thận trọng trả lời. - Nhưng đó là từ trước, còn bây giờ con đã bắt đầu thấy yêu anh ấy rồi và con sẵn sàng làm mọi việc để anh ấy đáp lại tình cảm của con.
- Chà, tôi nghĩ là chị chẳng có nhiều cơ hội để làm được điều đó đâu - Vera tiếp tục. - Chị biết không, bản thân tôi trước đây cũng đã từng được thuê tới đây để giúp Paul giải quyết những trục trặc tâm lý gây ra bởi cuộc chiến tranh đó. - Bà sửa soạn như muốn đứng dậy. - Tôi không thể nói rằng mình đã thành công với hai người bọn họ. Chị tưởng Paul là con đẻ của Kurt thật ư? Thực ra thì hai người ấy… - Bà gắng tìm lời để diễn đạt cho chính xác. - Họ quá xa nhau. - Bà nói thẳng toẹt rồi đứng dậy. - Tôi sẽ tiễn chị ra cửa.
Đồ chó đẻ! Rosemary lẩm bẩm trên đường lái xe về nhà. Đột nhiên cô phanh lại, quay xe và hướng thẳng tới Stellenbosch. Lúc này đã là giữa trưa, nhưng thay vì chạy đi tìm Margaret cô lại vòng sang chái nhà phía đông và gõ nhẹ vào cánh cửa phòng Anna.
Chẳng có tiếng trả lời. Cô chạm tay vào nắm đấm cửa và khẽ khàng mở ra. Anna ngồi một mình bên chiếc bàn trong phòng khách, đang viết nguệch ngoạc lên một quyển sổ dày.
- Tại sao cô không trả lời khi cháu gõ cửa? - Rosemary hỏi.
- Vì tôi đang làm việc - Anna cáu kỉnh đáp lại.
- Anna, cháu cần cô giúp đỡ.
Anna khó chịu liếc xéo qua vai.
- Bao nhiêu? - Bà hỏi.
- Nhiều khi cô nghiêm nghị quá làm cho cháu sợ.
- Tôi đang bận - Anna nói. - Tôi cho là Paul cử cháu tới đây để thuyết phục tôi hạ giá trứng.
Rosemary bối rối ra mặt.
- Thật thế sao? Ôi vâng, vậy thì ý cô thế nào?
Rồi cô ngượng nghịu kể hết với Anna những vấn đề của mình. - Giá mà cháu có thể làm trọn được bổn phận của mình với Paul, - cuối cùng cô nói.
- Kết cục của việc phải lòng một người nào đó luôn là sự vỡ mộng - Anna nói, đóng sập cuốn sổ của mình lại. - Thôi thì chuyện sao thì cứ đành vậy thôi. Chẳng có gì mà phải hậm hực cả. Hãy cứ sống vui vẻ. Còn về chuyện con cái, nếu như cháu không có con thì sẽ chẳng có ai làm cháu thất vọng, hoặc là bỏ cháu mà đi để mặc cháu lại với một trái tim tan nát.
- Vera thật kinh khủng đối với cháu - Rosemary tiếp tục. - Thật cáu bẩn.
- Đúng vậy - Anna trầm ngâm. - Nhưng không phải lúc nào cũng thế đâu. Lần đầu tiên tôi gặp cô ta thì tính nết cô ta mềm như bơ vậy, và người ngợm cũng tròn trĩnh như một cục bơ ấy. Nhưng cô ta đã thay đổi. - Bà ngừng lại, trong lòng thầm cho rằng chính Kurt đã phá hủy bản chất đôn hậu của người đàn bà đó; anh ta chẳng bao giờ yêu Vera cả, mà chỉ làm khổ cô ta mà thôi.
Rosemary cảm thấy bực bội vô cùng. Chẳng ai quan tâm tới chuyện của cô cả.
- Hình như cô cũng rất thích anh Paul thì phải, - cô buột miệng thốt lên. - Cô cũng không có tim hệt Vera vậy. - Mắt cô tóe lửa. - Cháu đến để cầu xin giúp đỡ, vậy mà cả hai người đều không thèm để ý tới.
- Rosemary, - Anna nhẹ nhàng nói. - Những gì xảy ra với Paul, đó là trước khi nó tới mảnh đất Nam Phi này. Chỉ mình Madeleine là biết được nhưng cô ta không nói ra. Cô ta là một con quỷ cái nhưng hy vọng là cháu thuyết phục được cô ta. Chỉ còn cách đó thôi.
- Có thể cháu sẽ giúp được anh ấy nếu như cháu hiểu anh ấy.
Ôi Chúa ơi, Anna nghĩ thầm, tại sao con người ta lại cứ phải chịu đau khổ và mặc cảm về những kỷ niệm trong quá khứ vậy nhỉ? Mình mong sao con bé chóng ra về.
*
* *
Paul biết chỗ ở của Madeleine, đôi khi anh cũng tới đó thăm bà nhưng Rosemary không dám hỏi thẳng. Thay vào đó cô đi tới phòng triển lãm nơi người ta treo bán những bức tranh của Madeleine. Đó là một cửa hàng lớn nằm gần tòa án và một trong phòng trong đó được dành làm nơi sáng tác của bà.
Đi một vòng xem tranh, tự dưng Rosemary cảm thấy buồn nôn. Những bức tranh làm cho cô khó chịu. Chẳng hạn như có một bức vẽ hai người đàn bà ngồi chơi trong vườn, nhưng trên mặt của họ lại là hai cái mặt nạ phẳng lì đang tuột ra, đằng sau đó là những sắc mặt dữ dội chừng như muốn xông ra ăn tươi nuốt sống người xem vậy; một trong số họ trông giống hệt Anna. Loài người trong tranh của Madeleine hiện lên với vẻ chết chóc bệnh hoạn thật đáng sợ. Nhưng giá của chúng mới thật kinh hồn; không bức nào dưới hai nghìn rand cả. Người bán hàng bảo với cô rằng Madeleine đã lấy một chuyên gia tâm lý học tên là George Warring và đang sống ở Bloubergstrand. Rosemary gọi điện thoại đến đó và đề nghị được tới uống trà vào buổi chiều hôm sau.
*
* *
Rosemary rất đỗi ngạc nhiên khi trông thấy Madeleine. Đó là một phụ nữ béo tròn, mái đầu đã lốm đốm hoa râm còn người thì lấm lem sơn vẽ nhưng cặp mắt xanh của bà lấp lánh và vẻ mặt thật tươi cười niềm nở.
- Trông bà chẳng giống là lác giả của những bức tranh ngoài kia tẹo nào. - Rosemary nói lí nhí.
- Chà, tôi cố không vẽ bản thân mình, tôi sợ như vậy lắm. - Madeleine vui vẻ đáp lại. Bà đặt một chiếc ấm cũ kỹ lên cái bếp ga nhỏ trong góc phòng và mấy phút sau đưa cho Rosemary một cốc trà to.
Ngồi một lúc, rồi Rosemary cố lấy hết can đảm của mình ra để hỏi Madeleine về cuộc đời trước đây của Paul.
- Cháu muốn làm một điều gì đó cho hôn nhân của chúng cháu, - cô ngượng ngùng nói tiếp. - Chúng cháu chẳng bao giờ cãi nhau cả, chúng cháu không đủ hiểu nhau để mà cãi nhau. Anh ấy luôn tỏ ra lịch sự; nhưng chúng cháu chỉ là một cặp vợ chồng hờ mà thôi. Cháu cảm thấy mình không thể quyến rũ nổi anh ấy và cháu đang đánh mất dần đi sự tự tin của mình.
- Tôi luôn cảm thấy mình phải có trách nhiệm với số phận của Paul, - Madeleine nói với Rosemary, - nhưng nó chẳng bao giờ thích tôi cả. Nó có vẻ vui vẻ và hạnh phúc hơn khi không có tôi bên cạnh. George, đó là chồng của tôi, - bà giải thích, - đã giúp tôi hiểu ra vấn đề, ông ấy bảo tôi đã khiến cho Paul nhớ lại quá khứ đau buồn của nó, cái quá khứ nó muốn quên đi nhưng lại không quên được. Tôi sẽ nói cho cô nghe tất cả những gì mà tôi biết, - giọng Madeleine chợt trầm hẳn xuống. - Đó là một thời kỳ thật kinh khủng. Tôi bị bắt ngay từ đầu cuộc chiến tranh bởi vì mẹ của tôi là người Do Thái. Tôi còn sống được tới ngày nay là bởi lúc đó tôi còn quá trẻ nên đã bị gửi tới một trại lính để mua vui cho chúng. - Bà cười buồn. - Thật là một tình thế lạ kỳ: kẻ bắt người và người bị bắt lại có cùng một số phận gắn bó với nhau. Tôi đã khóc khi thấy những toán lính đó bị giết; họ đã chia sẻ với tôi và cả những người đàn bà khác nữa những khẩu phần ăn cuối cùng của mình.
- Sau chiến tranh tôi được người Nga trả lại tự do và được đưa tới một trại tị nạn. Đó là một giai đoạn cực kỳ hỗn độn; người này chẳng biết người kia là ai, không ai có thứ giấy tờ gì cả. Sau một tháng sống ở đó tôi nghe đồn rằng người ta đang có kế hoạch cho hồi hương những người đau yếu. Tôi không ốm, nhưng có một cậu bé con - tôi gọi nó là Paul - nó vừa bị câm vừa bị điếc.
Rosemary há hốc miệng ra vì kinh ngạc.
- Đúng vậy, lúc đó nó bị như thế đấy, - Madeleine cau mày. - Nó được một bà già người Ba Lan trước đây đã từng là đầy tớ trong gia đình nhà nó đưa tới trại đó. Bà ta cam đoan thằng bé là người Do Thái và bà bảo với những người quản lý trại tị nạn rằng muốn để cho nó đi cùng với những người Do Thái. Cha của nó là một bác sĩ nhưng bọn Đức đã treo cổ ông ấy khi chúng xâm chiếm Ba Lan. Mẹ nó bị lính Đức hãm hiếp và sau đó cũng bị treo cổ. Bà người hầu đã tìm thấy nó đi lang thang và đã giấu nó trong suốt bốn năm trời. Trong thời gian đó thằng bé chẳng nói chẳng rằng gì cả, mà bà già cũng không để ý thấy nó bị điếc nữa cơ. Cô uống thêm trà nhé?
- Không, cháu cảm ơn bà - Rosemary nói khẽ.
- Có quá nhiều thủ tục ở trại tị nạn đó. Chẳng ai có bất cứ thứ giấy tờ nào cả. Mà chúng tôi ai cũng nóng lòng muốn được trở về nhà. Cách dễ dàng nhất là tôi giả đò Paul là con trai của tôi. Lúc đó nó gầy lắm, gầy giơ xương ấy và tôi đoán nó không quá năm tuổi, nhưng sau đó tôi mới nhận ra rằng nó phải nhiều hơn thế ít nhất là hai tuổi.
- Đến bây giờ thì chẳng còn cớ gì để mà khóc nữa. - Madeleine nói tiếp sau khi đã đưa cho Rosemary một mẩu khăn tay nhỏ xíu. - Thời gian đã trôi qua lâu rồi và Paul bây giờ đã hoàn loàn hồi phục. Anna giúp nó được nhiều hơn là tôi giúp.
- Cháu xin lỗi bà, nhưng cháu muốn về. - Rosemary nói, hỉ mũi vào chiếc khăn tay - Cháu sẽ quay lại sau vậy, còn bây giờ cháu cảm thấy bối rối quá.
Cô ra về qua cổng sau vườn và đi lang thang dọc theo những đụn cát nhấp nhô trong suốt một giờ sau đó, chống chọi với những cơn gió biển cứ điên cuồng thổi tung cát lên thành những đám bụi mù. Liệu Paul có còn nhớ gì về những ký ức đó không nhỉ? Cô tự hỏi. Có vẻ như không. Mặc dầu vậy chúng vẫn còn tồn tại ở đó dưới một bề mặt phẳng lặng. Rõ ràng anh căm thù sự tấn công tình dục. Cô nhớ lại phản ứng của anh với những giọt nước mắt, anh nói rằng anh chỉ muốn bỏ chạy. Vậy cô có quyền gì đòi hỏi nhiều hơn những thứ mà anh có để đáp ứng?
*
* *
Khi Paul trở về nhà vào bữa tối ngày thứ Sáu, có hai ngọn nến cháy lập lòe trên mặt bàn ăn. Nhưng anh không để ý. Một lát sau Rosemary lên tiếng:
- Paul này, em sẽ trở thành người Do Thái.
Anh đặt dĩa xuống và cau mày.
- Em sẽ không làm như vậy - Anh nói. - Dù em có làm thế hay không thì em vẫn không phải là người Do Thái.
- Không đúng - Cô tranh luận. - Em biết một người phụ nữ cải đạo và em cũng sẽ làm như vậy.
- Thôi quên chuyện này đi! - Anh gắt lên rồi đột ngột đứng dậy bỏ vào phòng làm việc. Rosemary không gặp lại anh trong quãng thời gian còn lại của buổi tối hôm ấy.
Ngày thứ Hai sau đó Rosemary gọi điện tới Ban đại diện Do Thái và được cung cấp số điện thoại của một vị giáo sĩ trong Ban cải cách, người chuyên phụ trách vấn đề cải đạo. Cô tin bằng cách này cuối cùng rồi vợ chồng cô cũng sẽ xích lại gần nhau hơn.
Ngân hàng thương mại đại diện cho Paul đề nghị được bán ra bốn mươi chín phần trăm số cổ phiếu mà anh đang dùng để thế chấp vay tiền và giá của chúng đã nhanh chóng tăng vọt lên tới hơn ba lần. Tất cả các nhà đầu tư ở Johannesburg và ở Đất Mũi tranh giành nhau để được làm cổ đông của Better Buys.
Chỉ mình Paul là hiểu được rằng anh đang ở trong một guồng quay đến chóng mặt của công việc kinh doanh buôn bán và anh phải gắng sức lắm để giữ cho mình không bị chìm nghỉm trong đó. Anh biết rằng chỉ cần dừng lại một phút thôi anh sẽ bị phá sản hoàn toàn. Anh phải luôn theo sát thị trường giá cả để làm sao cho giá bán hàng của mình đánh bại được những đối thủ cạnh tranh khác, nếu không thì những khách hàng trung thành của anh sẽ bỏ anh mà ra đi. Tuy nhiên, nếu có thêm sức của các nhà đầu tư tham gia vào thì nhịp tăng trưởng của Better Buys sẽ vẫn được tiếp tục cải thiện và như vậy có nghĩa là sẽ có thêm nhiều lợi nhuận. Giới hạn mức lãi của Better Buys hiện giờ vẫn còn quá hạn hẹp và chỉ có một cách duy nhất để nới rộng nó ra là bán - bán thêm thật nhiều hàng hóa. Nếu mức độ tăng trưởng mà giảm thì các nhà đầu tư sẽ mất lòng tin và giá cổ phiếu sẽ lập tức hạ xuống ngay. Như vậy thì sẽ thực là một thảm họa bởi vì những cổ phần đó chính là sự thế chấp của anh đối với ngân hàng để vay thêm tiền mở rộng tập đoàn của mình. Bằng mọi cách, giá cổ phiếu phải được tăng lên.
Vòng quay lại càng quay nhanh hơn nữa.
Duy chỉ có một phạm vi là Paul có thể đạt được thắng lợi và đó là với những nhà cung cấp hàng.
Đầu tiên, anh ve vãn họ như một chàng trai ve vãn một cô gái, cho tới khi đã có khả năng thâu tóm được hầu hết đầu ra của họ thì anh bắt đầu siết chặt. Cuối cùng, anh chỉ để lại cho họ một khoản lợi nhuận hết sức nhỏ nhoi gần như không đủ để cho các doanh nghiệp đó tiếp tục hoạt động. “Anh ta đúng là một con người ghê gớm: cho cá sấu châu Phi ăn, rồi sau đó lại ăn thịt chúng”, người ta nhận xét như vậy.
Kurt và Anna cũng thế.
Một buổi sáng Kurt thức dậy và chợt nhận ra rằng bảy mươi lăm phần trăm đầu ra các sản phẩm gia cầm của họ đều đã rơi vào tay của Better Buys. Chẳng bao lâu sau đó Paul thình lình xuất hiện và thông báo một tin làm cho Kurt chết điếng cả người rằng anh ta sẽ hạ giá bán lẻ các sản phẩm gia cầm xuống tới hai mươi lăm phần trăm. Tỷ dụ như trứng, anh ta giải thích, họ đã bán với giá quá cao trong nhiều năm qua. Anh chẳng thấy có lý do gì để Kurt và Anna kiếm được tới hơn mười phần trăm lợi nhuận từ các hoạt động chăn nuôi và chế biến gia cầm cả và anh ta đã tính toán chi ly tới từng xu một những gì mà họ phải chi trả để họ có thể nhận được tối đa là mười phần trăm lợi nhuận. Paul quyết định sẽ rút lại hợp đồng và chờ cho tới khi Kurt chấp nhận mức giá mà anh đặt ra. Cha và con trai lại một lần nữa vướng vào mối cừu hận và lần này xem ra còn gay gắt hơn tất cả những lần trước. Cuối cùng Kurt đành tới gặp Anna, thái độ khúm núm, lưng còng xuống vì đau khổ và ngượng ngập, giải thích với bà về những việc con trai ông đã làm.
Nhưng trước sự kinh ngạc của ông, Anna chỉ mủm mỉm và sau đó phá lên cười ầm ĩ.
- Anh đúng là một lão già ngu ngốc - Bà nói. - Nó chỉ là một đứa trẻ con. Anh đang quá tự ti và đau khổ về mặt tâm lý nên không thể suy xét thấu đáo được vấn đề. Hãy cứ tham gia vào trò chơi của nó, và cư xử như chúng ta với nó là những người xa lạ.
Một tuần sau đó họ chấp thuận bán hàng cho Paul với mức giá thậm chí còn thấp hơn cả giá mà Paul đề nghị sau khi giải thích rằng họ tính sẽ chấp nhận thu lợi nhuận ít đi để bán thêm được nhiều hàng hơn, qua đó nâng doanh thu của mình cao lên. Đổi lại Paul sẽ chỉ được mua hàng của họ và phải chịu trách nhiệm tiến hành một chiến dịch quảng cáo dồn dập kéo dài sáu tháng với các mặt hàng chế biến từ gia cầm hạ giá để khuyến mại. Như vậy bản thân anh trước mắt cũng sẽ không thu được lợi nhuận gì từ những khoản này.
Paul rất ngạc nhiên nhưng cũng hồ hởi hưởng ứng.
Sáu tháng sau, Jack Tassetti, đối thủ cạnh tranh lớn nhất và cũng là duy nhất của Anna và là một cựu thành viên trong cái ủy ban chết tiệt của lão Pietersen trước đây, người đã tham gia vào phi vụ gây cho Anna biết bao đau khổ, đã phải tuyên bố phá sản. Bà mua lại đất đai, chuồng trại và cả đàn gia cầm của ông ta với giá hết sức rẻ mạt và sau đó lại làm cho Paul ngạc nhiên đến sững cả người khi nhận ra rằng chỉ sau một đêm giá trứng đã tăng lên đến năm chục phần trăm. Anh chạy đi khảo giá một vòng nhưng chẳng còn tìm được ai có sẵn một lượng hàng lớn như thế để bán nữa.
Paul đã nhận được một bài học ra trò, anh quyết định sẽ phải thận trọng hơn trong tương lai.
*
* *
Sáu tháng đã trôi qua kể từ ngày cưới của Rosemary, vậy mà cô vẫn hầu như không dám tuyên bố rằng mình hiểu Paul nhiều hơn khi ấy. Họ ngầm thỏa thuận với nhau đóng vai một cặp vợ chồng trẻ tràn đầy hạnh phúc, còn thì thực chất rất ít khi cô gặp được anh bởi vì Paul chỉ chúi đầu vào công việc suốt cả ngày.
Thường thì anh chỉ trở về vào lúc nửa đêm và cuộc sống tình dục của họ diễn ra lén lút vào lúc thanh vắng nhất khi Rosemary đã bắt đầu lơ mơ ngủ, nhưng đó là một hành động vội vã khiến cô càng thêm bối rối và cô đơn hơn. Rosemary thèm khát được yêu, nhưng điều này dường như cô sẽ không bao giờ có được. Cô quyết định gia nhập xã hội thượng lưu ăn chơi tài tử và nhanh chóng bị lôi kéo vào một đám bạn mới cùng với những buổi tiệc tùng liên miên của họ. Tuần nào gương mặt xinh đẹp của cô cũng xuất hiện trên các tờ báo địa phương và luôn là cùng với những người đàn ông khác nhau đi hộ tống.
Paul tỏ ra không quan tâm tới việc cô dùng thời gian của mình vào việc gì chừng nào mà cô còn luôn có mặt khi anh cần đến - và cô luôn thực hiện tốt được điều này.
Ba tuần trôi qua. Trong lễ kỷ niệm một năm ngày cưới của mình, Rosemary nhận được hoa từ gia đình Acker và Margaret, điện thoại của mẹ và thiếp chúc mừng của vô số những người quen biết. Nhưng Paul lại chẳng có gì. Cô gọi điện tới văn phòng của anh.
- Anh yêu, em nghĩ sẽ là rất tuyệt nếu như hôm nay anh trở về nhà sớm, chúng ta sẽ có một bữa ăn tối dành riêng cho hai người. Anh có thể về trước bảy giờ được không?
- Để làm gì? - Giọng anh tỏ vẻ khó chịu vì bị quấy rầy.
- Chà, hôm nay là kỷ niệm một năm ngày cưới của chúng mình mà, - cô rụt rè nói. - Em nghĩ…
- Nhưng hôm nay cũng là ngày làm việc. - Một tiếng “cạch” cụt lủn chấm dứt cuộc đối thoại của họ.
Rosemary đặt ống nghe xuống chậm rãi hơn. Việc gì mà phải khóc nhỉ? Cô tự nhủ, đưa tay quệt ngang má. Mình đã có được đúng thứ mà mình muốn rồi còn gì. Khóc bây giờ là hết sức ngu xuẩn. Ngay lúc này đây Rosemary hiểu rằng cô đã đi vào ngõ cụt. Tiền bạc làm gì, giàu có làm gì khi mà con người ta cảm thấy mình cô độc?
Tối hôm đó cô ở một mình, ngồi trong mảnh sân nhỏ trước nhà, nhìn ra ngoài vịnh. Có rất nhiều sự lựa chọn mở ra trước mắt cô. Cô có thể cặp bồ, nhưng vậy để làm gì khi mà tình yêu của cô chỉ dành cho Paul? Cô có thể hài lòng với những điều vui thú mà của cải mang lại: chiếc du thuyền, những con ngựa, bạn bè, quần áo… - nhưng cô biết rằng như vậy vẫn chưa đủ. Khi đã có trong tay, những thứ ấy vụt trở nên quá tầm thường nhỏ mọn. Đối với cô bây giờ, tình yêu chứ không phải vật chất mới là quan trọng, cô chỉ cần có một người bạn bên mình, người mà cô có thể chia sẻ hết mọi tâm sự thầm kín.
Cô không biết làm cách nào để gần gũi được với Paul hơn, nhưng cô luôn tỏ ra cố gắng hết sức. Ít nhất thì khi Paul trở về, anh luôn thấy Rosemary đang có mặt ở nhà.
Cô cũng bắt đầu theo dõi các hoạt động của anh, nhưng đây là công việc chẳng dễ dàng vì Paul luôn phải chạy đôn chạy đáo từ nơi này sang nơi khác. Cô nhận thấy anh thường vắng nhà vào các buổi tối thứ Sáu và sáng ngày thứ Bảy. Chẳng lẽ anh ấy lại sa vào những thói hư tật xấu như đánh bạc chẳng hạn. Cô đoán vậy, cuối cùng Rosemary nghi rằng có một người đàn bà nào khác đã xen vào giữa cô và Paul, cô quyết định thuê một thám tử tư để tìm hiểu xem anh ở đâu vào những lúc đó.
Bản báo cáo tới sau đó hai tuần và rất ngắn gọn. Vào lúc năm giờ chiều các ngày thứ Sáu, Paul đi tới giáo đường Do Thái và ở lại đó tới tận chín giờ, sau đó anh về nhà. Sáng thứ Bảy anh lại làm đúng như vậy và đôi khi cả chiều thứ Bảy nữa. Còn những ngày lễ thánh anh lưu lại đó suốt cả một đêm cùng với những người Do Thái khác. Họ hỏi cô có muốn tiến hành điều tra tiếp không?
Cô trả tiền, cảm thấy mình thực là ngốc nghếch. Cô ngượng vì điều đó.
Kỳ cục, cô nghĩ. Paul không bao giờ tỏ ra một dấu hiệu gì chứng tỏ anh là người sùng đạo hoặc quan tâm tới Do Thái giáo cả, và nếu đúng như vậy thì tại sao anh lại kết hôn với một người không phải Do Thái? Vera đã từng vô cùng khó chịu với đám cưới này. Bà ta thán vì Paul đã không luân thủ theo các quy định của Do Thái giáo, nhưng anh không hề bận tâm tới vấn đề đó và vẫn luôn tỏ ra yêu quý vợ. Rosemary đoán rằng trong thời thơ ấu của mình anh đã gặp phải một chuyện gì đó vô cùng khủng khiếp và anh đã giữ kín nó trong lòng trong suốt bao nhiêu năm qua. Cô biết rằng mình sẽ không thể gần gũi với Paul được chừng nào mà cô chưa chia sẻ được với anh điều bí mật đó.
*
* *
Rosemary luôn không thích Vera và cô ngờ rằng bà mẹ chồng của mình cũng có chung một cảm giác như vậy, nhưng cuối cùng cô đành vận dụng hết lòng can đảm và tìm tới gặp bà để cầu xin được giúp đỡ.
Nhà của Vera giống hệt một viện bảo tàng với vô số những tác phẩm nghệ thuật được nhồi nhét ở bất cứ chỗ nào có thể. Rosemary căm ghét nó nhưng hôm nay cô lại đang rất quyết tâm với vấn đề của mình và còn định dốc hết bầu tâm sự với Vera.
- Con không biết phải làm gì nữa mẹ ạ, - cô kết thúc. - Có một bức rào chắn không thể nào vượt qua nổi giữa hai vợ chồng con, con sẽ phải sống với một người xa lạ trong suốt phần đời còn lại của mình hay sao? Tồi tệ hơn là con lại rất yêu anh ấy.
Vera lạnh lùng nhìn cô.
- Chị ạ, - cuối cùng bà nói. - Nếu như chị muốn có được một mối ràng buộc tình cảm thì chị phải tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi lấy chồng chứ. Chị đã thâm nhập vào gia đình này bằng cửa sau và bây giờ lại muốn thay đổi mọi chuyện ư? Thế mà tôi cứ ngỡ anh chị là một cặp xứng đôi vừa lứa cơ đấy.
- Mẹ chưa bao giờ thích con cả, phải không? - Rosemary buồn rầu hỏi lại.
- Nói chính xác hơn là tôi chưa bao giờ hiểu chị cả. Paul bảo với tôi rằng đám cưới này là một sự thỏa thuận. Nó cần có một người vợ còn chị cần một người chồng giàu.
Rosemary đỏ bừng mặt.
- Đúng là con có nói như vậy, - cô thận trọng trả lời. - Nhưng đó là từ trước, còn bây giờ con đã bắt đầu thấy yêu anh ấy rồi và con sẵn sàng làm mọi việc để anh ấy đáp lại tình cảm của con.
- Chà, tôi nghĩ là chị chẳng có nhiều cơ hội để làm được điều đó đâu - Vera tiếp tục. - Chị biết không, bản thân tôi trước đây cũng đã từng được thuê tới đây để giúp Paul giải quyết những trục trặc tâm lý gây ra bởi cuộc chiến tranh đó. - Bà sửa soạn như muốn đứng dậy. - Tôi không thể nói rằng mình đã thành công với hai người bọn họ. Chị tưởng Paul là con đẻ của Kurt thật ư? Thực ra thì hai người ấy… - Bà gắng tìm lời để diễn đạt cho chính xác. - Họ quá xa nhau. - Bà nói thẳng toẹt rồi đứng dậy. - Tôi sẽ tiễn chị ra cửa.
Đồ chó đẻ! Rosemary lẩm bẩm trên đường lái xe về nhà. Đột nhiên cô phanh lại, quay xe và hướng thẳng tới Stellenbosch. Lúc này đã là giữa trưa, nhưng thay vì chạy đi tìm Margaret cô lại vòng sang chái nhà phía đông và gõ nhẹ vào cánh cửa phòng Anna.
Chẳng có tiếng trả lời. Cô chạm tay vào nắm đấm cửa và khẽ khàng mở ra. Anna ngồi một mình bên chiếc bàn trong phòng khách, đang viết nguệch ngoạc lên một quyển sổ dày.
- Tại sao cô không trả lời khi cháu gõ cửa? - Rosemary hỏi.
- Vì tôi đang làm việc - Anna cáu kỉnh đáp lại.
- Anna, cháu cần cô giúp đỡ.
Anna khó chịu liếc xéo qua vai.
- Bao nhiêu? - Bà hỏi.
- Nhiều khi cô nghiêm nghị quá làm cho cháu sợ.
- Tôi đang bận - Anna nói. - Tôi cho là Paul cử cháu tới đây để thuyết phục tôi hạ giá trứng.
Rosemary bối rối ra mặt.
- Thật thế sao? Ôi vâng, vậy thì ý cô thế nào?
Rồi cô ngượng nghịu kể hết với Anna những vấn đề của mình. - Giá mà cháu có thể làm trọn được bổn phận của mình với Paul, - cuối cùng cô nói.
- Kết cục của việc phải lòng một người nào đó luôn là sự vỡ mộng - Anna nói, đóng sập cuốn sổ của mình lại. - Thôi thì chuyện sao thì cứ đành vậy thôi. Chẳng có gì mà phải hậm hực cả. Hãy cứ sống vui vẻ. Còn về chuyện con cái, nếu như cháu không có con thì sẽ chẳng có ai làm cháu thất vọng, hoặc là bỏ cháu mà đi để mặc cháu lại với một trái tim tan nát.
- Vera thật kinh khủng đối với cháu - Rosemary tiếp tục. - Thật cáu bẩn.
- Đúng vậy - Anna trầm ngâm. - Nhưng không phải lúc nào cũng thế đâu. Lần đầu tiên tôi gặp cô ta thì tính nết cô ta mềm như bơ vậy, và người ngợm cũng tròn trĩnh như một cục bơ ấy. Nhưng cô ta đã thay đổi. - Bà ngừng lại, trong lòng thầm cho rằng chính Kurt đã phá hủy bản chất đôn hậu của người đàn bà đó; anh ta chẳng bao giờ yêu Vera cả, mà chỉ làm khổ cô ta mà thôi.
Rosemary cảm thấy bực bội vô cùng. Chẳng ai quan tâm tới chuyện của cô cả.
- Hình như cô cũng rất thích anh Paul thì phải, - cô buột miệng thốt lên. - Cô cũng không có tim hệt Vera vậy. - Mắt cô tóe lửa. - Cháu đến để cầu xin giúp đỡ, vậy mà cả hai người đều không thèm để ý tới.
- Rosemary, - Anna nhẹ nhàng nói. - Những gì xảy ra với Paul, đó là trước khi nó tới mảnh đất Nam Phi này. Chỉ mình Madeleine là biết được nhưng cô ta không nói ra. Cô ta là một con quỷ cái nhưng hy vọng là cháu thuyết phục được cô ta. Chỉ còn cách đó thôi.
- Có thể cháu sẽ giúp được anh ấy nếu như cháu hiểu anh ấy.
Ôi Chúa ơi, Anna nghĩ thầm, tại sao con người ta lại cứ phải chịu đau khổ và mặc cảm về những kỷ niệm trong quá khứ vậy nhỉ? Mình mong sao con bé chóng ra về.
*
* *
Paul biết chỗ ở của Madeleine, đôi khi anh cũng tới đó thăm bà nhưng Rosemary không dám hỏi thẳng. Thay vào đó cô đi tới phòng triển lãm nơi người ta treo bán những bức tranh của Madeleine. Đó là một cửa hàng lớn nằm gần tòa án và một trong phòng trong đó được dành làm nơi sáng tác của bà.
Đi một vòng xem tranh, tự dưng Rosemary cảm thấy buồn nôn. Những bức tranh làm cho cô khó chịu. Chẳng hạn như có một bức vẽ hai người đàn bà ngồi chơi trong vườn, nhưng trên mặt của họ lại là hai cái mặt nạ phẳng lì đang tuột ra, đằng sau đó là những sắc mặt dữ dội chừng như muốn xông ra ăn tươi nuốt sống người xem vậy; một trong số họ trông giống hệt Anna. Loài người trong tranh của Madeleine hiện lên với vẻ chết chóc bệnh hoạn thật đáng sợ. Nhưng giá của chúng mới thật kinh hồn; không bức nào dưới hai nghìn rand cả. Người bán hàng bảo với cô rằng Madeleine đã lấy một chuyên gia tâm lý học tên là George Warring và đang sống ở Bloubergstrand. Rosemary gọi điện thoại đến đó và đề nghị được tới uống trà vào buổi chiều hôm sau.
*
* *
Rosemary rất đỗi ngạc nhiên khi trông thấy Madeleine. Đó là một phụ nữ béo tròn, mái đầu đã lốm đốm hoa râm còn người thì lấm lem sơn vẽ nhưng cặp mắt xanh của bà lấp lánh và vẻ mặt thật tươi cười niềm nở.
- Trông bà chẳng giống là lác giả của những bức tranh ngoài kia tẹo nào. - Rosemary nói lí nhí.
- Chà, tôi cố không vẽ bản thân mình, tôi sợ như vậy lắm. - Madeleine vui vẻ đáp lại. Bà đặt một chiếc ấm cũ kỹ lên cái bếp ga nhỏ trong góc phòng và mấy phút sau đưa cho Rosemary một cốc trà to.
Ngồi một lúc, rồi Rosemary cố lấy hết can đảm của mình ra để hỏi Madeleine về cuộc đời trước đây của Paul.
- Cháu muốn làm một điều gì đó cho hôn nhân của chúng cháu, - cô ngượng ngùng nói tiếp. - Chúng cháu chẳng bao giờ cãi nhau cả, chúng cháu không đủ hiểu nhau để mà cãi nhau. Anh ấy luôn tỏ ra lịch sự; nhưng chúng cháu chỉ là một cặp vợ chồng hờ mà thôi. Cháu cảm thấy mình không thể quyến rũ nổi anh ấy và cháu đang đánh mất dần đi sự tự tin của mình.
- Tôi luôn cảm thấy mình phải có trách nhiệm với số phận của Paul, - Madeleine nói với Rosemary, - nhưng nó chẳng bao giờ thích tôi cả. Nó có vẻ vui vẻ và hạnh phúc hơn khi không có tôi bên cạnh. George, đó là chồng của tôi, - bà giải thích, - đã giúp tôi hiểu ra vấn đề, ông ấy bảo tôi đã khiến cho Paul nhớ lại quá khứ đau buồn của nó, cái quá khứ nó muốn quên đi nhưng lại không quên được. Tôi sẽ nói cho cô nghe tất cả những gì mà tôi biết, - giọng Madeleine chợt trầm hẳn xuống. - Đó là một thời kỳ thật kinh khủng. Tôi bị bắt ngay từ đầu cuộc chiến tranh bởi vì mẹ của tôi là người Do Thái. Tôi còn sống được tới ngày nay là bởi lúc đó tôi còn quá trẻ nên đã bị gửi tới một trại lính để mua vui cho chúng. - Bà cười buồn. - Thật là một tình thế lạ kỳ: kẻ bắt người và người bị bắt lại có cùng một số phận gắn bó với nhau. Tôi đã khóc khi thấy những toán lính đó bị giết; họ đã chia sẻ với tôi và cả những người đàn bà khác nữa những khẩu phần ăn cuối cùng của mình.
- Sau chiến tranh tôi được người Nga trả lại tự do và được đưa tới một trại tị nạn. Đó là một giai đoạn cực kỳ hỗn độn; người này chẳng biết người kia là ai, không ai có thứ giấy tờ gì cả. Sau một tháng sống ở đó tôi nghe đồn rằng người ta đang có kế hoạch cho hồi hương những người đau yếu. Tôi không ốm, nhưng có một cậu bé con - tôi gọi nó là Paul - nó vừa bị câm vừa bị điếc.
Rosemary há hốc miệng ra vì kinh ngạc.
- Đúng vậy, lúc đó nó bị như thế đấy, - Madeleine cau mày. - Nó được một bà già người Ba Lan trước đây đã từng là đầy tớ trong gia đình nhà nó đưa tới trại đó. Bà ta cam đoan thằng bé là người Do Thái và bà bảo với những người quản lý trại tị nạn rằng muốn để cho nó đi cùng với những người Do Thái. Cha của nó là một bác sĩ nhưng bọn Đức đã treo cổ ông ấy khi chúng xâm chiếm Ba Lan. Mẹ nó bị lính Đức hãm hiếp và sau đó cũng bị treo cổ. Bà người hầu đã tìm thấy nó đi lang thang và đã giấu nó trong suốt bốn năm trời. Trong thời gian đó thằng bé chẳng nói chẳng rằng gì cả, mà bà già cũng không để ý thấy nó bị điếc nữa cơ. Cô uống thêm trà nhé?
- Không, cháu cảm ơn bà - Rosemary nói khẽ.
- Có quá nhiều thủ tục ở trại tị nạn đó. Chẳng ai có bất cứ thứ giấy tờ nào cả. Mà chúng tôi ai cũng nóng lòng muốn được trở về nhà. Cách dễ dàng nhất là tôi giả đò Paul là con trai của tôi. Lúc đó nó gầy lắm, gầy giơ xương ấy và tôi đoán nó không quá năm tuổi, nhưng sau đó tôi mới nhận ra rằng nó phải nhiều hơn thế ít nhất là hai tuổi.
- Đến bây giờ thì chẳng còn cớ gì để mà khóc nữa. - Madeleine nói tiếp sau khi đã đưa cho Rosemary một mẩu khăn tay nhỏ xíu. - Thời gian đã trôi qua lâu rồi và Paul bây giờ đã hoàn loàn hồi phục. Anna giúp nó được nhiều hơn là tôi giúp.
- Cháu xin lỗi bà, nhưng cháu muốn về. - Rosemary nói, hỉ mũi vào chiếc khăn tay - Cháu sẽ quay lại sau vậy, còn bây giờ cháu cảm thấy bối rối quá.
Cô ra về qua cổng sau vườn và đi lang thang dọc theo những đụn cát nhấp nhô trong suốt một giờ sau đó, chống chọi với những cơn gió biển cứ điên cuồng thổi tung cát lên thành những đám bụi mù. Liệu Paul có còn nhớ gì về những ký ức đó không nhỉ? Cô tự hỏi. Có vẻ như không. Mặc dầu vậy chúng vẫn còn tồn tại ở đó dưới một bề mặt phẳng lặng. Rõ ràng anh căm thù sự tấn công tình dục. Cô nhớ lại phản ứng của anh với những giọt nước mắt, anh nói rằng anh chỉ muốn bỏ chạy. Vậy cô có quyền gì đòi hỏi nhiều hơn những thứ mà anh có để đáp ứng?
*
* *
Khi Paul trở về nhà vào bữa tối ngày thứ Sáu, có hai ngọn nến cháy lập lòe trên mặt bàn ăn. Nhưng anh không để ý. Một lát sau Rosemary lên tiếng:
- Paul này, em sẽ trở thành người Do Thái.
Anh đặt dĩa xuống và cau mày.
- Em sẽ không làm như vậy - Anh nói. - Dù em có làm thế hay không thì em vẫn không phải là người Do Thái.
- Không đúng - Cô tranh luận. - Em biết một người phụ nữ cải đạo và em cũng sẽ làm như vậy.
- Thôi quên chuyện này đi! - Anh gắt lên rồi đột ngột đứng dậy bỏ vào phòng làm việc. Rosemary không gặp lại anh trong quãng thời gian còn lại của buổi tối hôm ấy.
Ngày thứ Hai sau đó Rosemary gọi điện tới Ban đại diện Do Thái và được cung cấp số điện thoại của một vị giáo sĩ trong Ban cải cách, người chuyên phụ trách vấn đề cải đạo. Cô tin bằng cách này cuối cùng rồi vợ chồng cô cũng sẽ xích lại gần nhau hơn.