Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 22 - Phần 4
Ta cũng chưa thảm hại đến mức phải dùng một người con gái để giữ lại mạng sống. Bây giờ cũng vậy, sau này cũng vậy. Phùng Thục Giang, câu xuất giá tòng phu của nàng, ta tính được không?
Người rất nhẹ nhàng, rất mềm mỏng nhưng vòng tay ôm chặt quanh eo lại rắn chắc như sắt đá, không thể dễ dàng thoát khỏi. Từng lời vang lên thực sự rất ép người. Sau mấy lớp áo mỏng, trái tim nàng đập như trống trận làm mắt hoa cả lên. Cuối cùng, đôi môi run rẩy cũng cất thành lời, ánh mắt tán loạn, phần sợ hãi, phần hồ nghi, phần lại tự ti cũng ngước lên nhìn gương mặt tuấn tú khiến bao thiên kim tiểu thư tại Đông Kinh tương tư, thương nhớ.
- Thần nữ… thực sự rất sợ. Thần nữ không hiểu được điện hạ. Dường như người thần nữ quen bên hồ cá trong Cung thành, người dạy thần nữ học và… người ở cung tiềm để là hai… hai thái cực hoàn toàn đối lập. Người như thần nữ sao có thể ở bên điện hạ?
Ánh nhìn sâu thẳm toát ra từ đôi tròng mắt đen thẫm làm từng lời Thục Giang để vuột khỏi môi nhỏ lại, nhỏ lại, rồi tắt ngấm. Vòng tay ôm quanh thân thể đang không ngừng run lên kia cũng nới lỏng. Tư Thành ung dung mỉm cười:
- Nàng thực sự thấy ta là hai người khác biệt? Kiểu như… sống hai mặt?
Ngẩn ra nhìn dáng điệu chấp nhận sự thật ấy của chàng, nàng không ngăn được mình lắc đầu:
- Không phải hai mặt… Là… điện hạ quá phức tạp… Thần nữ không hiểu được.
- Hiểu ta như nàng bây giờ là được rồi! – Chàng lại cúi xuống, hơi thở ấm áp vuốt nhẹ qua vành tai khiến cả người Thục Giang không còn chút sức lực phản kháng. – Thục Giang, trả lời ta: Nàng có muốn ở bên ta hay không?
- Thân nữ không thể, thần nữ không thông minh, không…
- Ta hỏi nàng có muốn hay không? – Chàng trầm giọng, kiên quyết nhắc lại từng từ.
Bờ môi mấp máy. Mắt nhìn bóng lá dệt thành tấm thảm trải trên sàn nhà. Vầng trán thiếu nữ cọ nhẹ hai cái lên vai Tư Thành khi nàng rụt rè gật đầu. Nhẹ nhàng rút cuộn giấy trong tay cô gái, đặt lên chiếc bàn nhỏ kê cạnh giường, chàng nghiêng người thổi tắt ngọn nến gần đó, thì thầm ra lệnh:
- Mẫu thân nàng chắc chắn đã dạy khi nến tắt, rèm buông phải làm gì rồi chứ?
- Điện hạ, thần nữ có thể hỏi người một điều được không? – Bàn tay đặt lên cổ áo của chàng chợt dừng lại, những ngón tay hơi níu xuống.
- Là gì?
- Tại sao… lại là thần nữ?
- Vì nàng đã dám ăn miếng bào ngư ta gắp. Vì nàng đã thay ta chôn cất Đông Phong. Lý do thì rất nhiều, từ từ ta sẽ nói hết cho nàng biết!
Khi tấm rèm nhẹ buông xuống, dưới ánh sáng nhạt nhòa hắt vào từ ô cửa sổ, in trong đôi mắt mở lớn trong suốt của cô gái là nụ cười thực sự vô cùng dịu dàng điểm trên môi người ấy, nam nhân duy nhất của cuộc đời nàng.
***
Những người ngồi trên ngai vàng chỉ có hai dạng: hoặc là dùng cơ mưu, trí tuệ mà đoạt được giang sơn, đàn áp phe phái đối nghịch; hoặc là nghiễm nhiên lên ngôi theo sự xếp đặt của người khác. Lê Nghi Dân đương nhiên không phải loại Hoàng đế thứ hai. Khí trời lưu chuyển theo cơn gió, cuốn tung những cánh hoa mai trắng cuối cùng còn vương vấn trong vườn Thượng uyển. Chàng khoan khoái vươn vai, trong lòng không thể không vui khi một số đại thần đầu bạc dần dần tỏ chút ý định quy phục.
- Việc Gia vương từ chối nhận chức tước, tham gia vào quan trường, thần không biết nên nghĩ là việc tốt hay xấu. Xin quan gia chỉ dạy. – Phạm Đồn cau mày, bước chầm chậm phía sau Hoàng đế, trong lời nói không thiếu sự ngờ vực.
- Hắn giờ này ngoài đọc sách, tiêu dao ở cung tiềm để, hình như còn đang mê đắm vị tiểu thư họ Phùng đúng không? Quả nhiên đúng là tuổi trẻ. Xem ra ta cũng nên xuống chiếu ban hôn cho đứa em này rồi. Nó đã cố tình né tránh khi biết các đại thần không còn đứng về phía mình nữa thì ta cũng sẽ nương tay. Được rồi, tạm thời ngươi cho người giám sát Đinh Liệt, Lê Lăng cho ta. Còn riêng với lão già đã công khai đối đầu ta…
- Quan gia không tin Nguyễn Xí bị mù?
- Ta đâu phải trẻ lên hai mà dễ dàng tin cái trò vớ vẩn ấy của lão. – Chàng nheo mắt, cười nhạt. – Ta dám chắc, đó không phải chiêu làm mình làm mẩy thông thường. Sau lưng ta, người như Nguyễn Xí chắc chắn không ngồi yên được. Ngươi sai thuộc hạ thân tín trà trộn vào làm người hầu kẻ hạ trong nhà Thiếu bảo, thử xem lão có mù thật hay không. Đánh rắn phải đánh dập đầu, một khi những lão đại thần không biết an phận mà cúc cung tận tụy thì không cần giữ lại. Bọn chúng chết, tự khắc đám người sau lưng sẽ không dám manh động. Tư Thành càng không dám, không thể làm được gì.
Gật đầu tỏ ý đã hiểu dụng ý, người đàn ông lén đưa mắt nhìn chủ nhân, đôi lông mày vẫn chưa giãn ra. Trước đây, vì muốn có được các đại thần, Hoàng đế sẵn sàng triệt hạ em trai mình để quan lại dù có sinh lòng phản trắc cũng chẳng biết phải tôn phò ai. Nay nếu dẹp bỏ dần những vị đại nhân quyền khuynh thiên hạ, cái lợi đầu tiên chính là những vị trí béo bở đó sẽ đến lượt những công thần như Phạm Đồn, Phan Bang. Nhưng như thế cũng đồng nghĩa với việc…
- Quan gia đã có ý dẹp bỏ quyền thần dám khinh bạc Thiên tử… tức là người cũng có ý sau đó sẽ tha cho Gia vương một con đường sống?
Ngoái lại, gương mặt đương phảng phất những nét thư thái của người thanh niên thoắt cái chuyển sang vẻ uy quyền tột đỉnh.
- Phạm Đồn, ngươi biết câu nhổ cỏ tận gốc chứ?
- Hạ thần đã hiểu. Giờ thần xin cáo lui để thu xếp việc quan gia giao phó.
Không ai nhận ra. Có khi chính bản thân Nghi Dân cũng không nhận ra trong một thoáng rất nhanh, lướt qua đầu óc chàng, ẩn kĩ sau ánh mắt đế vương là kí ức đêm binh biến mùa đông năm ngoái. Hình ảnh khi Nguyễn Thị Anh chỉ thẳng vào mặt chàng, đôi mắt sắc mở lớn ngạo nghễ pha lẫn chua chát bảo rằng: “Năm xưa, đáng lẽ ta nên giết chết tươi hai mẹ con nhà ngươi mới đúng. Đáng nhẽ phải nhẫn tâm như vậy!” hiện lên rõ rệt như cái hiện thực rằng, bà ta chưa từng, hay không thể, không kịp dồn cả Nghi Dân lẫn Dương thị vào bước đường cùng.
“Là ả chưa kịp!” – Chàng lắc nhẹ đầu, đôi môi mím chặt lại chợt nhếch lên cười.
Những kẻ được phái đi ngày hôm ấy theo lệnh của Phạm Đồn phải mất kha khá thời gian mới mang về cho Hoàng đế một sự xác minh thực sự hữu dụng. Đó là một buổi chiều tháng tư, xuân vừa tàn, hạ chớm đến.
Từ khi trong Cung thành xảy ra biến loạn đến nỗi càn khôn xoay chuyển, đế vị đổi thay, Hải Triều biết ý nên cũng không lui đến phủ của Đình thượng hầu nữa. Thế nhưng phu nhân Minh Nguyệt lại lấy sự lạnh nhạt của nàng ra để trách cứ, có ý bảo nàng sợ liên lụy nên né tránh. Nói qua nói lại một hồi, cuối cùng là Đình thượng hầu muốn nhờ nàng thỉnh thoảng làm người đưa tin giúp. Lý do thì có nhiều. Hải Triều cũng biết không phải những điều đại nhân viện dẫn ra đều là kiếm cớ. Chỉ là… không nói thẳng vào lý do chính nhất mà thôi. Một phần vì nàng bị câm nên chẳng ai thèm đề phòng, một phần vì nếu như Đinh Liệt hay Nguyễn Xí bị đánh đổ, mong muốn tẩy oan cho Nguyễn Trãi dù mong manh đến mấy cũng không thể thành hiện thực. Giúp hai vị ấy làm chút chuyện chính là nàng đang tự giúp mình.
Quàng sợi dây thao lên vai, thiếu nữ mím môi khi bị mấy tên lính khôi giáp tề chỉnh đứng canh ngoài cửa cung tiềm để xoay tới xoay lui tra xét. Hải Triều biết phu nhân Minh Nguyệt đã thay chồng dàn xếp mọi chuyện với Gia vương từ trước nên không hề nghĩ sự kiểm tra vẫn gắt gao như vậy. Tiếc rằng, dù chúng có tra thế chứ tra nữa cũng chẳng được gì, thư tín giấy trắng mực đen quá nguy hiểm, đến lời nói đầu môi còn có thể bị nghe lén nữa là. Nàng thực sự đến đây tay không.
- Các ngươi xong chưa? – Hoạn quan cất giọng éo éo, vừa sốt ruột, vừa bực mình. – Đào nương đây là do điện hạ gọi đến, có gì đâu mà phải xét kĩ thế.
- Quan gia có lệnh, sau vụ ám sát của phản tặc, trong nội cung lẫn cung tiềm để phải tăng cường cảnh giác. – Một tên lính nghiêm giọng vặn lại – Nếu giờ chúng ta làm ăn cẩu thả, nhỡ may Gia vương điện hạ có mệnh hệ gì thì ngươi chịu trách nhiệm được không? Xong rồi, đi đi!
Viên hoạn quan nhác trông thấy tên lính ấn trả cây đàn vào tay thiếu nữ liền nhanh nhẹn bước tới, xen vào giữa nàng và kẻ kia rồi liến thoắng:
- Ngươi đi theo ta. Điện hạ đợi lâu lắm rồi đấy! Nhanh chân lên!
Nâng cao cây đèn trong tay, dưới ánh sáng vàng trong vắt, Đức Vượng phải thầm thốt lên trong bụng rằng, cô đào đi cạnh hắn không phải chỉ xinh xắn, ưa nhìn đơn thuần. Là tuyệt đẹp, gọi là giai nhân tuyệt sắc cũng không quá lời. Có điều, thực bụng hắn không thấy thích đào nương này chút nào bởi khí lạnh lẫn sự âm trầm tỏa ra từ người nàng. Đối diện với cung tiềm để, ánh lên trong tròng mắt tựa như hai viên ngọc trai nhưng lại mang sắc đen thẫm ấy là đôi chút ngạc nhiên chứ không hề sợ hãi hay e dè. Thỉnh thoảng, hắn còn cảm thấy cô gái nọ lặng lẽ đưa mắt nhìn mình. Không phải soi mói, càng chẳng phải tò mò nhưng là kiểu nhìn khiến Đức Vượng thấy hơi rợn.
Đi hết con đường lát đá, trước mắt Hải Triều là ngôi đình xây trên hồ nước được bao xung quanh bởi đủ các loại cây. Đôi môi thắm sắc hồng đào tự nhiên mỉm cười. Nàng với ngài ấy xoay tới xoay lui, cuối cùng vẫn lại gặp nhau ở một nơi trên là mái đình hóng gió, dưới là hồ nước mênh mông. Cung tiềm để rất rộng, kiến trúc vừa bề thế vừa tao nhã khác xa cái lộng lẫy đến choáng ngợp của Cung thành. Thế nên, việc chọn một nơi thế này có khi không phải thuần túy chỉ là tùy hứng.
- Ngươi vào đi.
Viên hoạn quan dẫn đường dừng lại cách bậc tam cấp lên xuống một quãng khá xa, để mình Hải Triều bước đến. Dưới ánh sáng tỏa rạng từ ba chiếc đèn lồng treo dưới mái ngói âm dương là người thanh niên áo trắng ngồi tựa mình vào cây cột gỗ để mộc không sơn. Ánh mắt chàng trôi nổi ở đâu, tâm trí càng không đặt ở chốn này. Chần chừ một lúc, ngón tay thiếu nữ gảy nhẹ lên sợi dây đàn làm vang lên thứ âm thanh rất nhẹ.
- Đến rồi sao? Ngồi xuống đi! – Tư Thành vừa nghe thấy vậy liền ngoái lại, trên môi là một nụ cười nhã nhặn.
Hải Triều kính cẩn cúi chào rồi mới khẽ khàng ngồi xuống chiếc chiếu hoa trải trên nền đá của ngôi đình hóng gió. Âm thanh rỗng phát ra khi thùng đàn chạm nhẹ vào mặt nền cứng khiến chàng trai vui miệng hỏi:
- Đàn đáy? Còn có tên là vô đề cầm?
Nàng gật đầu đáp lại, lúc xếp hai tà tứ thân áo màu lam tím cũng tranh thủ thuận mắt nhìn ngó tứ bề xung quanh xem có ai hay không. Trong màn đêm mượt như nhung bao quanh cung tiềm để chỉ có duy nhất ánh đèn lồng nổi trôi, hắt ánh sáng lên những bức tường, tán sắc đỏ loang trên mặt nước lặng.
- Ăn trầu đi hẵng rồi muốn nói gì hãy nói. – Chàng lịch sự cất lời, ánh mắt lướt qua gương mặt thanh nhã kia rồi hướng ra hồ nước.
Trên chiếc bàn gỗ lim chân thấp, bốn bên đều chạm hình hoa mai nổi trên lá trúc, có cơi trầu đỏ son, bộ đồ trà và một cái bát lớn thả mấy bông hoa cúc tròn tròn bập bềnh trong nước. Miếng trầu là đầu câu chuyện, vì phép lịch sự nên Hải Triều cũng không tiện từ chối. Gõ nhẹ lên mặt gỗ để thu hút sự chú ý của Gia vương, thiếu nữ nhúng ướt ngón tay vào bát hoa, viết lên bàn hết chữ này đến chữ khác. Mỗi nét chữ là mỗi hình ảnh, mỗi âm thanh nàng từng được chứng kiến. Hải Triều nghiêng đầu, mải mê viết rồi lại xóa, xóa rồi lại viết, không hề nhận ra Tư Thành đã chầm chậm đứng sau lưng mình từ lúc nào, càng không nhận ra hàng lông mày của chàng từng chút từng chút chau khít lại.
Hôm ấy, nàng theo lời dặn của Đình thượng hầu gửi một tập sách đến tận tay Thiếu bảo Nguyễn Xí. Nhưng mới bước gần đến sảnh chính, nàng đã bị một tên gia nô lạ mặt nhào ra, tay thì kẹp nửa thân trên, tay thì bịt miệng nàng, lôi vào một góc. Một tên khác bế đứa con hãy còn ẵm ngửa, quấn trong lớp chăn lụa màu lá sen xanh thẫm của Thiếu bảo trong tay, lớn tiếng gọi: “Bẩm ông, bà sai Thu Cúc đưa cậu út đến chỗ ông chơi một lúc. Nhưng trà pha xong lại đặt ở ngoài vườn, hay con bảo người bưng vào luôn được không ạ?”. Lúc ấy, nàng không hiểu nhiều chuyện, càng không hiểu tại sao khi Nguyễn Xí lần lần chống gậy trúc bước ra, nói không cần bưng trà vào trong, trên gương mặt những gã đàn ông ấy lại lộ vẻ đắc chí vô cùng. Đến khi kẻ kia đặt đứa bé trong tay xuống thềm, vừa tầm bước chân của Thiếu bảo, Hải Triều mới vỡ lẽ.
“Thiếu bảo đã đạp chết đứa con trai thứ mười sáu của mình”.
Lúc viết xong dòng chữ ấy, như có ai hắt cả một chậu nước lạnh vào mặt nàng, bản thân dường như không thở nổi. Tiếng khóc váng lên giữa buổi ban trưa quang đãng rồi tắt ngấm của đứa nhỏ. Tiếng gào thét tuyệt vọng như muốn xé rách cổ họng của vị phu nhân, cách bà ngã sấp xuống nhưng vẫn cố sức lết đến ôm lấy đứa bé vào lòng… Máu đỏ thấm qua tấm chăn làm màu lá sen chuyển sắc thẫm. Dưới nắng trong, dòng máu tanh lấp lánh đỏ tươi chảy tràn trên thềm đá. Từng hình ảnh, từng âm thanh đều thật đến nỗi khiến ruột gan trong bụng Hải Triều lộn cả lên. Nàng vội vàng nhắm mắt, nghiến chặt hàm răng. Đây không phải lần đầu tiên nàng thấy người chết, có điều…
Gió thổi tới từ hồ vào làm lớp nước đọng trên mặt bàn từng chút, từng chút bốc hơi hết. Nét chữ dần trở nên mờ nhòa. Bàn tay chắp sau lưng theo từng con chữ mà siết chặt lại, y như ngày Bang Cơ mất, y như ngày chàng dồn Đông Phong vào đường cùng. Trong lòng bàn tay, những dấu móng tay cắm xuống ngày một sâu. Tư Thành khẽ hỏi:
- Xong việc bọn chúng bỏ chạy, không làm gì cô hết?
Hải Triều gật đầu xác nhận.
- Thiếu bảo hay có ai trong phủ sai người đuổi bắt mấy kẻ đó không?
Không ngoài dự liệu của chàng, cô đào nghe thấy vậy liền lắc đầu. Thực ra, không phải Gia vương không biết những chuyện này. Ngô Quân mấy bữa trước đã nhanh chóng báo tin, nhưng chỉ dừng lại ở chuyện đứa con út mới sinh của Nguyễn Xí đột nhiên qua đời và việc có một đào nương hay qua lại với phu nhân Minh Nguyệt vô tình có mặt ở phủ Thiếu bảo vào đúng hôm xảy ra sự cố. Chàng đã muốn cho gọi Ngọc Huyên từ đó, vừa hay hôm trước bên nhà Đình thượng hầu cũng có ý như vậy.
Đan hai bàn tay lại rồi đặt trong lòng, Hải Triều đưa mắt nhìn người đối diện hồi lâu. Vì chàng đang mải suy nghĩ nên không nhận ra, càng không nhận thấy trong đáy mắt thiếu nữ cuối cùng cũng gợn sóng lăn tăn. Chẳng cần đến nàng bình phẩm, kẻ ngu ngốc nhất trên đời cũng dễ dàng nhìn ra sự lạnh lùng sừng sững như vách núi của Gia vương. Có điều, cái lạnh lùng ấy không phải bởi huyết thống, càng không phải bởi thân phận hay bản tính. Đó là cái lạnh lùng của cô độc, của kẻ chỉ có một mình, chỉ có thể dựa vào chính mình. Phải, ấn tượng từ trước đến giờ của Hải Triều dành cho đứa trẻ được cha nàng và tam phu nhân liều mạng cứu về chỉ có thể là hai chữ cô độc đầy kiêu hãnh như thế mà thôi.
Trùm lên gương mặt anh tuấn với đôi mắt sáng ngời, sắc bén và thâm sâu như hai đáy vực kia xem chừng không phải chỉ có sự bình thản lạnh lẽo. Nàng quả thực không nhìn qua được lớp áo giáp rất dày, rất kiên cố và hoàn mỹ bao quanh Tư Thành, nhưng lại nghĩ mình cảm thấy người thanh niên kia đang sững sờ, đang thất thần. Chắc chắn một phần nào đó ở rất sâu, rất sâu sau sự thông minh, tỉnh táo muôn đời vạn kiếp của con người ấy đang như vậy. Gia vương kém nàng gần hai tuổi nhưng luôn khiến Nguyễn Hải Triều cảm thấy người ấy đã sống hơn nàng ít nhất hai mươi năm. Hai mươi năm, đời người được mấy lần hai mươi năm như thế? Hai mươi năm, thực ra không phải con người vì những va vấp, vì những thất bại của bản thân mà chai sạn đi. Họ chỉ đang chọn một cách khác để bộc bạch phần con người còn lại của mình mà thôi.
Như mẹ nàng chẳng hạn.
Như các đào nương chẳng hạn.
Hơi thở căng đầy, dồn ứ trong lồng ngực cuối cùng cũng được đẩy ra trong một tiếng thở dài. Chợt nghĩ đến số tiền mình đã nhận, Hải Triều cảm thấy ngồi im trong đình hóng gió thật chẳng ra đâu vào đâu, có khi còn khiến cho người ngoài sinh nghi. Chị Phượng từng bảo với nàng, làm đào nương có hai cái thú. Cái thú thứ nhất là được gặp nhiều dạng người, sành sỏi, tinh ý là có thể nhìn ra ai là kẻ có tiền đồ, nhìn ra rồi lặng lẽ dõi theo người ấy xem điều mình đoán trúng hay trượt thực sự là trò giết thời gian hấp dẫn.
Cái thú thứ hai chính là: Đau khổ lớn nhất của đời người là khi muốn khóc mà không khóc nổi, không giãi bày được nỗi lòng. Ai trên đời chẳng ít nhất một lần trải qua cảm giác ấy, có điều đào nương còn có thể nương tựa vào cây đàn của mình. Mắt không còn lệ thì để sợi dây tơ khóc hộ. Miệng không nói được thì để thanh âm ngân giùm.
Nghĩ ra hai cái thú vui ấy trong đêm nay mình đều có duyên nhìn qua cả, nàng liền cầm cây đàn lên, nhẹ nhàng áp nó vào người, cảm nhận sự thân quen của gỗ, của những sợi dây, phím đàn truyền đến da thịt mình. Thanh âm ngân lên, nhắm mắt lại có thể mường tượng như ai đó nắm chặt một vật nặng trong tay, để ghé sát mặt nước rồi mới buông thả. Trong bóng tối, giữa mênh mang là nước, vật ấy cứ chìm mãi, chìm mãi qua không biết bao nhiêu tầng nước thẳm rồi như tan biến mất. Ở đây chỉ có một khúc nhạc trầm làm cái tĩnh lặng, u hoài hết tản mát lại ngưng tụ vào trong một dải âm sắc như những hạt châu nối nhau trên sợi chỉ mảnh.
Khi Gia vương từ từ hướng ánh nhìn vào cô đào, cơn buồn ngủ đã ngấp nghé kéo sụp hai mi mắt của Đức Vượng lập tức bốc hơi bằng sạch. Đến người hay hầu hạ cạnh Tư Thành như hắn lắm lúc còn không chịu nổi cái lặng lẽ đến ngột ngạt, vô tận bao xung quanh vị chủ nhân này huống hồ những kẻ khác. Nhưng không chịu nổi thì cũng phải thuộc lòng một luật lệ: Tuyệt đối không được tùy tiện tạo ra bất kì một âm thanh nào phá vỡ sự lặng yên ấy. Cô đào kia… Đức Vượng chưa kịp nghĩ xong đã ngẩn người nhìn Tư Thành rút cây sáo trúc. Vì đứng quá xa, hắn những tưởng chàng mỉm cười, thậm chí còn nghĩ nụ cười ấy cũng hợp lý thôi vì cô gái đối diện dung mạo đẹp đẽ, khí chất hơn người, tiếng đàn lại thực hay khiến kẻ đàn gảy tai trâu như hắn còn phải ngẩn ngơ.
Có điều, thực ra Tư Thành chẳng hề mỉm cười.
Từ trước đến nay, dù những người xung quanh biết giữ yên lặng đến thế nào, chàng cũng chưa từng quên đang có người hầu hạ hay chờ đợi mình. Một khi đã không quên thì không thể hoàn toàn thoải mái. Nhưng Ngọc Huyên thì khác. Không khó chịu, càng không chờ đợi Tư Thành lên tiếng, cô đào thờ ơ, lơ đãng nhìn ra ngoài hồ nước, nơi có những búp sen hãy còn non, vươn lên đu đưa trong gió. Rồi dần dần, con người ấy tan hòa vào chính sự im lìm tứ bề phẳng lặng. Thanh âm vang lên kia nảy sinh ra từ sự lặng lẽ, sự lặng lẽ của chàng hay của người con gái ấy đây?
Đôi hàng mi như nhành dương liễu rủ mềm xuống đôi mắt như bờ hồ phẳng lặng. Nàng kể lại mọi chuyện, thậm chí đến cả sự hiện diện lúc này hoàn toàn với tư cách của một kẻ qua đường. Không phải không sợ hãi, không bàng hoàng, không đau đớn. Chỉ là, tất cả những cảm xúc ấy đều bị sự trầm tĩnh, hiển nhiên chấp nhận đè nén xuống đến độ không cần thắc mắc, không cần hoài nghi, không cần than vãn những điều đại loại như: đàn ông trên đời coi trọng thứ gì đến nỗi sẵn sàng hi sinh con cái mình mang nặng đẻ đau… Giữa sự lạnh nhạt, hờ hững và sự thấu tỏ bình thản có một ranh giới cực kì mỏng manh. Một nữ nhân bình thường tuyệt đối không có cách cư xử như vậy. Một nữ nhân chỉ biết nhiều chuyện nội tình, đến mức được vợ chồng Đình thượng hầu tin tưởng cũng chưa chắc đã có cách cư xử như vậy. Thở dài, chàng áp thân sáo trúc lên môi. Nhập vào tiếng đàn trầm ổn của Hải Triều là âm thanh một dải chứa đôi phần day dứt, chua cay, vô tận tuôn chảy.
Miếng gảy trong tay vừa định hạ xuống, những ngón tay đã thay đổi vị trí, nhấn xuống những phím đàn nhô cao khác. Hải Triều đè ngón tay lên sợi dây liễu[4], thả buông những thanh âm trong nhất có thể tạo ra bằng cây đàn đáy, vừa mỏng nhẹ lại bay bổng để đệm cho tiếng sáo trúc mỗi lúc một ngân cao thánh thót, tựa hồ như vực nước được gạn đục khơi trong. Uyển chuyển như tấm lụa, lại vừa như một sinh vật tuyệt mỹ lấp lánh quẫy mình lột xác rồi vút bay, nàng không nén được thán phục liền đưa mắt nhìn Gia vương một cái.
[4] Tên một trong ba sợi dây của đàn đáy.
Những người thổi sáo điêu luyện hơn không phải nàng chưa từng gặp, cây sáo quý giá hơn, tạo tác tinh vi hơn nàng cũng đã có cơ may nhìn qua. Nhưng tất cả bọn họ, tính cả nam nhân người Ngô cầm cây sáo bằng bạch ngọc từng ghé giáo phường chẳng thể sánh được với khúc nhạc của người thanh niên trước mặt nàng. Cái sánh không được chính là khí chất mãnh liệt, hào sảng như thiên quân vạn mã, vững như bàn thạch ấy. Người có thể dẹp yên những ngổn ngang riêng tư để bình tĩnh, thấu đạt nặng nhẹ như vậy thật không tầm thường, thật vô cùng đáng sợ.
- Đức Vượng, mang rượu lại đây! – Tư Thành lớn tiếng sai bảo, tự nhiên hướng ánh mắt của mình tránh khỏi gương mặt thiếu nữ.
Nhìn những chén rượu hết đầy lại vơi, ngón tay đang tựa lên mặt đàn bằng gỗ cây ngô đồng khẽ động đậy. Mười ngón tay thoang thoảng hương thơm đặt lên tay Tư Thành, giữ bình rượu lại.
- Sao? Giờ cô cũng muốn ngăn ta?
Chàng lập tức rụt tay, nhướn chân mày vừa nghiên cứu vừa thách thức cô gái đối diện. Nâng cao cánh tay mảnh dẻ, Hải Triều rót đầy chén sứ trước mặt Gia vương. Trên mặt thứ chất lỏng ấy hãy còn sủi tăm, hương thơm nồng theo dòng nước trong vắt chảy ra từ chiếc bình hình chim phượng xếp cánh thoang thoảng lan khắp ngôi đình. Khẽ nhếch môi cười, chàng liếc mắt nhìn ả đào, nói:
- Cô muốn nhắc ta rượu rất thơm, đúng không?
Nàng tiếp rượu như thế chừng hơn mười chén, bàn tay cuối cùng cũng bị Gia vương giữ lại. Chàng nghiêng người, sai hoạn quan đứng hầu đổi ấm trà mới rồi tự tay rót một chén, đưa tới trước mặt thiếu nữ:
- Đừng để ta độc ẩm chứ.
Đôi mắt đen lướt qua miệng chén sứ men rạn màu ngà vẽ những họa tiết sắc chàm vô cùng tinh tế, nàng nhẹ nhàng cúi đầu, nhẹ nhàng đưa tay đón lấy. Ngón trỏ và ngón cái đặt nơi miệng chén, ngón giữa đỡ lấy đáy, không cần dùng lực nhiều nhưng vẫn nắm chắc vật nhỏ bé kia trong tay. Đó gọi là tam long giá ngọc. Chăm chú nhìn từng cử chỉ của cô gái, hơi rượu dâng lên đến mặt chàng tự nhiên bị cơn gió nhẹ thổi bay tản mát. Thưởng trà trước hết phải thưởng hương – ấy gọi là du sơn lãm thủy, chàng nghĩ vậy khi Hải Triều chầm chậm đưa qua đưa lại chén nước tỏa làn khói mờ dưới cánh mũi. Cuối cùng, cô mới nâng chén, kín đáo dùng bàn tay kia che phía trước rồi nhấp môi. Cảm vị đắng chát lẫn hương thơm trong miệng rồi mới từ từ nuốt xuống, để hậu vị ngọt thanh mờ ảo tan nơi cuống họng, đó mới là biết uống trà.
Trong làn sương bảng lảng đêm khuya, hơi lạnh tỏa ra từ nền đá xanh hòa cùng khí ấm của mùa hạ ngày một lấn lướt xuân tàn tạo thành một cảm giác êm dịu, khoan khoái. Thời gian ngưng kết, trời đất mênh mang, những vội vàng khỏa lấp, những cương nghị lạnh lùng cuồi cùng đều nhạt nhòa cả. Xoay xoay chén rượu rỗng không trong tay mình, chàng tự nhiên mỉm cười mỉa mai bộ dạng ngửa cổ nốc rượu của bản thân. Uống không nên để mua say. Làm người thì nên tỉnh táo, đừng để những cảm xúc ào ạt nhất thời làm mờ đi ý chí. Không phải bỗng dưng tao nhân mặc khách rỗi hơi thừa việc mà bày ra cách thưởng trà để tiêu phí thời giờ, ra vẻ thanh cao. Là lấy tĩnh chế động, lấy lặng yên để suy ngẫm nhân tình thế thái biến hóa khôn lường, đạo lý này Tư Thành hoàn toàn hiểu rõ. Dẹp bình rượu sang bên, chàng vén tay áo, tự châm trà cho mình.
Sai cô đào đến đây thưa chuyện, kể lại những điều xảy ra trong phủ Thiếu bảo chắc chắn không phải việc báo tin thông thường. Vì chàng, vì Cung vương, đến con cái mình họ cũng có thể không cần. Các vị đại thần muốn chàng hiểu rõ, đã dàn quân thì không thể thu lại. Một khía cạnh khác, đây ắt cũng là một nước cờ khích tướng, ép Tư Thành phải nhẫn tâm. Nhẫn tâm với ai, lòng chàng đã rõ.
- Cô không sợ sao? – Chàng nhạt giọng hỏi, khi thấy vẻ mặt không hiểu của cô gái liền nói thêm: – Đưa tin cho ta, nếu để tân đế biết được nhất định sẽ rất thê thảm.
Một chút hoài nghi dâng lên trong lòng khi nàng chớp mắt, ngẩn người. Tư Thành ngờ vẻ ngạc nhiên như thể đến lúc này mới nghĩ đến điều đó của ả đào đối diện chỉ là dối trá. Đắn đo một lúc, Hải Triều lắc đầu, thoải mái đón nhận nụ cười hàm chứa sự giễu cợt của Gia vương. Cuối cùng, chàng phẩy tay:
- Cô về được rồi!
Mỉm cười lúc cúi đầu từ biệt, thiếu nữ khoác chiếc nón quai thao lên vai rồi cầm cây đàn đáy lên. Vải áo xột xoạt làm không khí thoáng chốc lại được thêm vào hương hoa bưởi ngòn ngọt, thơm tho. Vừa đặt chân xuống nền đất, Hải Triều đã nghe sau lưng có tiếng hỏi:
- Cô có quen đào nương nào ở Đông Kinh chơi độc huyền cầm không?
Ánh sáng hắt ra từ đình hóng gió làm cả gương mặt thanh tú như đóa hoa trong sương hiện ra trọn vẹn, xa xôi, mờ ảo. Nàng hơi nhướn lông mày, lãnh đạm nhìn người thanh niên sau lưng rồi bình thản lắc đầu.
- Nói cũng phải! – Tư Thành cầm chén trà lên, mỉm cười – Làm thân con gái, ai lại chơi đàn bầu bao giờ.
Chép miệng, vị chát tan hết quả nhiên để lại thanh ngọt đầy dư âm. Xoa bóp cổ và bờ vai đã mỏi nhừ, người thành niên cầm cây sáo trúc đứng dậy, tựa người vào cây cột gỗ để nhìn ngắm những búp sen non. Xưa nay, chàng chưa từng nghĩ hay để tâm đến cô đơn; thường cho rằng đám con hát suốt ngày xuất đầu lộ diện ấy sống thực tự do, phóng khoáng. Nhưng rồi, Tư Thành đã nhận ra, kẻ một mình trên đời này không phải chỉ có mình chàng; kẻ chàng vẫn cho là tự do tự tại kia cũng vướng vào những sợi dây chằng chịt của riêng họ sau dáng vẻ an nhiên vô tận.
Nói cho cùng, con người vẫn luôn cô đơn giữa mọi người.