Hồ Quý Ly - Chương 06 - Phần 1

Chương 6: Cô gái vườn mai

1

Một chiến lược lớn của cha tôi là thu hút người tài.

Bọn Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Phạm Cự Luận, Đỗ Tử Mãn... đều do tay cha tôi đào tạo. Cả đến sau này Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn cũng đều xuất thân từ vương triều họ Hồ chúng tôi mà ra cả. Cha tôi thường nói:

- Trừng ạ, cha chỉ tiếc một điều: tìm mãi không thấy một nhân tài quân sự. Trước kia, chúng ta có Nguyễn Đa Phương, nhưng tiếc thay ông ta chỉ có tầm nhìn quá ngắn.

Cha tôi vẫn để ý đến Trần Khát Chân, vị đô tướng lúc đánh trận Hoàng Giang mới ngót năm mươi tuổi. Sau khi Chân giết được Chế Bồng Nga, cha tôi để tâm lôi kéo ông ta rất nhiều. Tiếc thay, lúc đó phe tôn thất nhà Trần cũng lôi kéo ông ta không kém.

Bọn võ tướng thân cận với cha tôi thường chê bai thượng tướng:

- Cũng là vận may thôi. Nhờ Ba Lậu Kê chỉ điểm, chứ có mưu lược gì đâu.

Cha tôi không bằng lòng:

- Các ông hồ đồ rồi. Lúc đó, thế nước như ngàn cân treo sợi tóc. Phía bắc, nhà Minh nhòm ngó. Trong nước Sư Ôn cướp kinh sư, và nhiều kẻ tư thông với giặc. Trong lúc đó Chế Bồng Nga là tay kiệt hiệt, đùng đùng tấn công như mãnh hổ. Nếu không có ông ta giết chết Bồng Nga, không hiểu rồi sẽ ra sao. Chiến lược rút lui khỏi Hoàng Giang nhử giặc vào trận phục kích trên sông Luộc chẳng là mưu lược đó sao?

Trong khi đó, sự giao du giữa tôi và Khát Chân càng ngày càng khăng khít. Chúng tôi là đôi bạn vong niên. Thượng tướng đã ngoại tứ tuần, tôi mới ngoại ba mươi. Tôi thích ông ở sự thẳng thắn, đậm đà. Còn ông thích tôi vì cái tính hào hoa, không câu nệ. Cha tôi cũng khuyến khích mối giao tình ấy. Phải nói, lúc đầu thượng tướng có chút thiện cảm với cha tôi. Ông nói với tôi:

- Thái sư là người tài cao học rộng, mưu lược, quyết đoán, muốn đổi thay đất nước...

Có lẽ ông còn cảm tình, vì ơn tri ngộ; chính cha tôi đã giới thiệu ông với Nghệ Hoàng. Tuy nhiên, tôi biết trong thâm tâm, ông còn một điều không nói ra. Giá như cha tôi chỉ dừng lại ở chỗ làm cải cách, chứ không có tham vọng xa hơn nữa.

Cha tôi không bao giờ nói ra, ngay cả với tôi, nhưng mọi người đều nhìn thấy tham vọng ấy cứ dần dần lớn lên. Nói cho đúng, mới đầu cha tôi thực bụng chỉ muốn đơn thuần làm biến pháp giúp Nghệ Hoàng cứu đất nước thoát khỏi nghèo khổ yếu hèn, nhưng sự phản đối thật vô cùng gay gắt. Hạn điền, người ta bảo cướp ruộng, chính sách tiền giấy, người ta bảo cướp tiền; hạn nô, người ta bảo bẻ nanh vuốt của người quân tử. Rồi còn bao nhiêu nhóm người, bao nhiêu âm mưu định giết ông. Và cha tôi phải đối phó lại. Triều đình bỗng biến thành chiến trường. Máu người liên miên chảy. Cùng với những sự đổ máu ấy, cha tôi mới hiểu ra thi hành biến pháp, muốn thay đổi đâu phải dễ. Và ông cũng hiểu muốn biến pháp cần phải có quyền hành. Từ đó tham vọng trong ông lần lần nảy nở, mới đầu chỉ là cái mầm, sau đó là một ý chí, cũng không ai biết điều đó chuyển biến từ lúc nào, manh nha từ lúc nào, thành hình rõ ràng từ lúc nào.

Và cùng với tham vọng lớn lên của cha, thì mối thiện cảm của Khát Chân đối với ông cũng dần dần giảm xuống. Cái ranh giới từ thiện cảm chuyển sang căm ghét là từ lúc nào, từ việc nào cũng không ai xác định nổi. Chỉ biết rằng sau trận Hoàng Giang ít lâu, thượng tướng cáo bệnh xin nghỉ ở nhà. Trong bài thơ tặng Khát Chân hôm đi theo Nghệ Hoàng dự tiệc Đại Mai, cha tôi có trách khéo:

Cây mai già

Cánh hoa ngọc ngà

Dầu dãi tuyết sương

Đã lâu rồi vẫn lặng tanh

Kẻ trượng phu sao phụ chí bình sinh...

Tôi cho rằng người bạn vong niên của tôi lúc đó còn đương do dự. Ông không biết nên đứng về tân pháp hay về phe bảo thủ. Sự tri ngộ của một người thông minh tài trí hẳn có hấp lực riêng của nó chứ. “Kẻ trượng phu sao phụ chí bình sinh?” Câu thơ ấy nói gì? Nhắc nhở ư? Hay một chút nghi ngờ? Ở thời “thiên túy”, ai dại gì gây sự chú ý, gây sự nghi ngờ. Thượng tướng cũng không ra ngoài thông lệ.

Từ hôm đó, ông lại trở về triều chính, nhưng ông ít nói. Ông như người đứng giữa, ít chống đối mà cũng chẳng về hùa với cha tôi. Tuy không lôi kéo được, cha tôi vẫn đối xử trọng đãi thượng tướng. Có thể đấy là dấu hiệu của sự chờ đợi, cũng có thể là đối sách tránh tạo thêm thù.

***

Ở thời đại tân pháp, cải cách, tranh tối tranh sáng, thời đại “thiên túy” như ông già điếc Sư Hiền vẫn nói, thật mệt! Bao nhiêu là thay đổi, thay đổi đến chóng mặt: hôm nay xuất hiện chính sách tiền giấy; ngày mai là hạn điền hạn nô; hôm sau nữa bắt sư hoàn tục, rồi tiếp theo đặt chức liêm phóng sứ để dò la những kẻ tham nhũng, chống đối v.v... Sau khi thái thượng hoàng Nghệ Tông chết, cha đã sai tôi vào Thanh Hóa khảo sát động An Tông. Lúc đó mới chỉ là ý nghĩ manh nha; còn bây giờ đã được quyết định, cha tôi quyết xây dựng một kinh đô mới ở thanh Hóa: Tây đô. Cha trình bày ý kiến với vua Trần Thuận Tông:

- Hiện nay ở phía Nam, đối với Chiêm Thành, đã ổn rồi; còn ở phía Bắc, nhà Minh luôn luôn rình rập, bắt buộc ta phải phòng bị. Thăng Long là nơi trung tâm Đại Việt, nhưng trống trải, giặc có thể đến rất nhanh. Đó là đất cai trị muôn dân lúc thời bình. Nhưng nếu có chiến tranh, ta phải có sẵn một nơi hiểm yếu. Do vậy, phải xây dựng Tây đô.

Trần Thuận Tông, ông em rể yếu đuối của tôi, đối với cha tôi, vừa là con rể, vừa là học trò từ lúc trẻ thơ, còn biết nói thế nào nữa. Ông bảo:

- Tùy thượng phụ, thấy có lợi cho nước thì thượng phụ cứ làm.

Thế là triều đình lại rộn ràng ồn ào vì chuyện xây dựng kinh đô mới. Một đợt sóng gió lại nổi lên. Ngay cả hành khiển Phạm Cự Luận, một người ngả về cha tôi cũng can ngăn:

- Thái sư nên chú ý. Việc này không phải nhỏ, làm xôn xao lòng người rất nhiều. Khắp nơi dân chúng bàn tán.

Cha tôi trả lời:

- Chí ta đã quyết, nhà ngươi còn nói làm gì nữa?

Thái sư hỏi ý kiến Khát Chân. Ông ta nói:

- Thăng Long là đất rồng tụ. Nhưng đúng là nơi không thể cố thủ về mặt quân sự. Trăm năm về trước, giặc Nguyên xâm lấn, Vua Trần Nhân Tông phải cùng triều đình rút khỏi Thăng Long và bôn ba khắp đất nước, sau mới thừa cơ thu thiên hạ về một mối. Vừa rồi, Chế Bồng Nga xâm chiếm, thái sư phải rước hai vua sang Đông Ngàn, Bình than tránh giặc. Tuy vậy, việc dời đô vốn là việc vô cùng hệ trọng xin thái sư cẩn thận cân nhắc.

Sử văn Hoa, viên quan chép sử, con người không biết sợ đã dâng sớ can ngăn, lời lẽ rất thống thiết:

Ngày trước, bên Trung Hoa nhà Chu, nhà Ngụy thiên đô, về sau đều không sao ngóc đầu lên được. Nay, ở Đại Việt ta đất Thăng Long có núi Tản Viên, có sông Nhị Hà, cao sâu phẳng rộng; từ trước, các đời đế vương mở cơ nghiệp dựng nước, không triều đại nào không lấy đất này làm nơi căn bản, vì thế mặt bắc chông giặc Nguyên thì giặc Nguyên phải tan, mặt nam đánh Chiêm Thành thì vua Chiêm bị giết. Những việc đó chẳng phải nhờ địa thế tiện lợi hay sao? Dám xin nghĩ lại một chút để làm kế vũng vàng cho nước nhà.

Còn như động An Tông, Thanh Hóa, địa thế nhỏ hẹp và hẻo lánh; chỗ này là nơi sơn cùng thủy tận, không thể định cư được. Trông cậy vào chôn hiểm trở phỏng có ích gì? Cổ nhân có câu: “Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trở.”

Đọc xong tấu biểu, cha tôi tức giận:

- Tên nho sinh ngông cuồng này lại muốn dạy ta: “Cốt ở đức, không cốt ở nói hiểm trở.”

Cha tôi tức giận câu nói đó, vì nó đâm trúng điểm yếu của ông. Đức ở đây hàm nghĩa lòng dân. Ở Thăng Long, lòng dân luôn hướng về nhà Trần, làm sao người yên tâm ngồi giữa một vùng thù địch. Mà ngay cả nhà Trần, họ cũng phải lấy phủ Thiên Trường, quê gốc của mình làm căn cứ địa. Tôi nhẹ nhàng nói với cha:

- Ai nói cũng có lý riêng của họ. Nhưng gia đình họ Hồ chúng ta, Thanh Hóa, Nghệ An là gốc, là quê hương. Cha nghĩ dựa vào quê hương cũng phải.

- Con nghĩ về nhà Minh thế nào?

- Hiện nay nhà Minh là mối lo lắng thứ nhất của đất nước. Cha xây dựng Tây đô cũng vì phòng khi nhà Minh xâm lấn. Con không sợ giặc Minh. Con chỉ sợ lòng dân không theo ta mà thôi.

Hai cô cung nữ Trần Ngọc Kỵ và Trần Ngọc Kiểm hầu hạ bên Trần Thuận Tông nói kín với nhau: “Thiên đô tức là quan Thái sư sắp cướp ngôi.” Việc vỡ lở, cha sai bắt hai cô cung nữ cùng mấy viên quan nhỏ đồng mưu là Lê Hợp và Lương Ông, rồi đem giết cả mấy người.

Mỗi một lần có chính sách mới lại có người bị chết. Lần này là những kẻ tép riu không thấy có một đại thần nào. Triều thần đã rút kinh nghiệm rồi, hay sự sợ hãi đã làm tê liệt sức phản kháng, hay bạo lực đã làm âm mưu chuyển dần vào bóng tối, âm mưu sẽ âm thầm len lỏi để chờ dịp nổ tung thành những cơn bão tố sấm sét.

Lúc này, tất cả mọi nơi đều im lặng, ngoan ngoãn, một im lặng mà tôi thấy sợ, còn cha tôi không thích. Việc xây dựng Tây đô tiến hành gấp gáp nhưng răm rắp. Tất cả các quan đại thần đêu được huy động, luân phiên nhau đi chỉ đạo.

Đầu tiên, thượng thư bộ lại Đỗ Tỉnh được cử đến An Tông đo đạc, đắp thành, đào hào, lập nhà tôn miếu, mở phố, xây dựng đường xá. Bắt một số nhà giàu phải đem tiền bạc đến xây dựng nhà cửa buôn bán. Bắt dân phố Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Đồng, Hàng Lọng... Ở Thăng Long phải chia dân làm đôi, một nửa di cư vào Tây đô lập phố. Sai bộ công đến các làng nghề khảm trai ở vùng Châu Giang chiêu tập dân có nghề đến lập phố khảm trai. Lại chiêu tập thợ chạm trổ, sơn son thếp vàng ở lộ Bắc Giang đến lập những cửa hàng làm đồ thờ tự và làm đồ mộc phục vụ hoàng cung. Các vương hầu, các quan lại lớn nhỏ đều được chia đất quanh Tây đô, để xây dựng trang trại dinh thự. Phải làm sao hoàn tất trong vòng một, hai năm, để có sự trù phú, sự lộng lẫy của một kinh đô mới. Hoàng Thành phải kiên cố, sự trù phú phải vượt hay ít nhất phải bằng kinh thành Thăng Long mà sau này sẽ gọi là Đông Đô.

Quyết tâm xây dựng cho nhanh, cha tôi đã huy động nhân công cả nước đi đục đá, đi nung gạch, đi đắp đất. Từng đoàn thuyền, từng đoàn người liên tiếp nhau, ùn ùn kéo về lộ Thanh Hóa. Gấp gáp quá, nên sai hành khiển Lương Nguyên Bưu dỡ hẳn hai điện Thụy Chương, điện Thiên An ở Thăng Long để lấy khung gỗ, lấy ngói lưu ly, đem đến Tây đô rồi lắp ráp lại cho nhanh.

2

Tôi được cha sai đến Tây đô kiểm tra công việc, rồi về báo cáo với người. Cha tôi muốn đến mùa xuân năm tới mọi việc phải hoàn tất, để làm hội thề ở kinh đô mới.

Xem xét xong mọi việc, tôi từ Tây đô cưỡi voi trở về Thăng Long. Di chuyển bằng voi cũng có cái hay. Thứ nhất, voi tuy to lớn cồng kềnh, nhưng đi nhanh chẳng kém gì ngựa. Thứ hai, cưỡi voi còn được ngắm cảnh, được biết đời sống dân tình. Thứ ba, ngồi trên bành voi thoải mái hơn ngồi trên lưng ngựa, ít mệt, gần tối voi đã về đến Thăng Long. Trên đường thiên lý, tôi chợt nảy ý nghĩ vào thăm thượng tướng Khát Chân. Dạo đó, vào dịp đầu xuân. Từ đường lớn nhìn vào thấy rừng mai của Thượng tướng xanh ngát một mầu lá mạ. Khu rừng mai trứ danh ấy được chia cắt với đường cái bởi một dải đầm hình cánh cung. Nó như một con hào rộng hoặc có thể nói, như một con sông. Hồ hoang tự nhiên, lau sậy mọc từng đám bên bờ, làm chỗ trú ngụ cho những con cuốc, le le hay đàn vịt trời. Thỉnh thoảng. những cánh cò trắng lại cất lên từ những vạt bèo, để duyên dáng lượn vòng soi bóng trên mặt hồ. Tướng quân cho dựng chiếc đình bên hồ để uống rượu, ngắm cảnh. Tôi đã nhiều lần ngồi chơi ở đó, đặt tên cho nó là Tị huyên đình (định tránh sự ồn ào). Khát Chân là quan võ nhưng thuộc loại người nhã. Đình nam gần mép nước. Khoảng nước cạnh đó, ông không trồng sen mà trồng hoa súng. Còn sen, ông cho trồng ở quãng hồ xa phía nam. Khát Chân bảo - Trồng gần, sen ngát quá, không thú. Trồng xa mới thú. Hương sen thoang thoảng ướp vào những cơn gió nam. Gió nhẹ thì hương mơn man như đùa, như dỡn. Có khi hương đượm vào những lùm lão mai rậm rì, rồi ngủ quên ở đó, để rồi một lúc nào đó sực tỉnh len lỏi vào tòa thủy đình giữa buổi trưa hè, lúc ta đang nằm trên võng, đánh thức ta dậy, để ta được tận hưởng cái nôn nao sung sướng vì loài hương đồng nội, thứ hương rất quê nhưng không hề tục.

Sen là loài hoa quý, đẹp cả sắc, đẹp cả hương, song ông đành phụ hoa sen, chỉ dám nhận hương, không dám nhận sắc. Về sắc, ông dành phần ưu ái cho hoa súng. Hoa súng nở sát bên tòa Tị Huyên đình. Trồng gần để dễ ngắm hoa. Ngắm cả lá nữa, vì lá súng bồng bềnh trên nước cũng rất đẹp. Những chiếc lá hình trái tim, cái to cái nhỏ, cái đậm cái nhạt màu bồ quân, màu xanh sậm nổi trôi theo sóng, đôi chỗ, những mầm sen vươn xa cũng lẩn vào lá súng, lá nâu sen lẩn lá màu cốm, thỉnh thoảng, một con cá quẫy làm nước bắn lên trên mặt lá, đôi khi chúng giống những viên ngọc tráng, lăn tròn, tỏa ra những ánh cầu vồng mà chỉ những kẻ tinh mắt, yêu hoa mới nhận thấy. Còn những bông hoa súng. Ông quá yêu cái dáng thẳng đứng cương nghị của chúng. Hoa súng đẹp theo một vẻ riêng. Cũng là thứ hoa từ bùn trồi lên, nhưng nó không quá cao và yểu điệu như hoa sen. Nó cũng màu tím đỏ, nhưng không giống hoa sen e ấp nghiêng đầu, nó tách ra khỏi đám lá bồng bềnh, nhô thẳng lên trời sát gần mặt nước, xòe cánh ra đón mặt trời, để hớp lấy ánh sáng, hớp lấy cuộc sống. Bảo rằng hoa súng không yểu điệu ư? Ông không tin vậy. Ông bạn vong niên của tôi cứ cho rằng cái yểu điệu của hoa súng tiềm ẩn, lặn vào bên trong, thứ yểu điệu ta chỉ cảm thấy, chứ không nhìn thấy...

Chiều hôm ấy, thượng tướng quân đang nằm trên võng, lặng lẽ nghe tiếng chim cuốc mùa xuân mới bắt đầu tha thiết kêu, thì gia nhân vào báo đức ông Nguyên Trừng đến chơi. Khát Chân mừng rỡ ra đón ở tận chiếc cầu đá vắt qua hồ ở quãng hẹp nhất. Thượng tướng nhìn thấy con bạch tượng xích dưới gốc cây gạo cổ thụ.

Tôi kính cẩn vái chào:

- Đệ vừa ở Tây đô trở về, vội vã vào thăm lão huynh.

- Lão đệ vừa tới Thăng Long? Ha ha... Tối nay phải ở đây, chúng ta cùng uống rượu, ngắm mai. Tôi vừa được biếu cây mai quý... cứ lo rằng lão đệ không về kịp...

- Sắp tàn xuân rồi, vẫn còn mai nở được sao? - Tôi hỏi thượng tướng nheo mắt, ý muốn giữ kín sự bí mật để lôi kéo tôi ở lại. Ông gọi cụ Lão Mai:

- Cụ bảo đem ngô và mía ra cho voi của đức ông ăn. Chuẩn bị nồi nước thơm cho đức ông tắm sạch bụi đường trường. Sau đó, bảo gia nhân chuẩn bị rượu và thức nhắm ra Tị Huyên đình để ta và đức ông thưởng xuân.

Tôi cười giòn, ý đã nhận lời:

- Tôi thực gặp may. Hai tháng về trước, khi ra đi, tôi cứ tiếc không được dự tiệc Đại Mai của lão huynh.

Hàng năm, cứ vào đầu tháng giêng thượng tướng vẫn mở tiệc Đại Mai đều đặn, lệ đó hình thành từ ngày đức Nghệ Hoàng đến thám trại Mai. Ông mở tiệc ý để kỉ niệm cái vinh dự lớn được thượng hoàng đến thăm uống rượu tại vườn mai, nhưng cũng còn ý ngầm muốn nhắc nhở lòng trung, nhắc nhở công đức nhà Trần. Các quan đều sốt sắng khi được mời. Mà làm sao ai có thể cấm được một bữa tiệc đầu xuân nhã đến như vậy. Mà làm sao ai có thể đoán được nội dung những câu chuyện được trao đổi trên những bàn tiệc trong một rừng mai rộng đến như thế, tản mác đến như thế. Ở đấy, người ta uống rượu ngon, ngâm thơ và nghe đàn nghe hát. Ở đấy, chỉ thấy tiếng cười và sự vui vẻ nhưng đằng sau nó, ai biết nổi có làn sóng ngầm nào đang chực nổi lên. Lẽ dĩ nhiên, cả hai phe đều đến dự. Người ta nghĩ nhờ chén rượu sẽ tìm thấy một điều gì đó. Nhưng rút cục vẫn chẳng ai thấy điều gì khác lạ cả, ngoài một điều mà mọi người đều cảm nhận: chủ nhân là người tinh tế, mềm nở, và rượu lão mai thật quả ngon, thật quả độc đáo.

Tôi tiếc bữa tiệc Đại Mai là phải. Bởi vì khác với mọi người, tôi là vị khách đặc biệt, vị khách mà khi mọi người đã về hết, thì chủ nhân giữ khách lại, rồi hai người tiếp tục uống với nhau thâu đêm.

- Lão đệ ạ. - Thượng tướng nói. - Huynh biết đệ bị lỡ hôm tiệc nên cứ để bụng tìm một cây mai nở muộn để đền cho chỗ thiệt thòi của lão đệ. May mắn có người biết huynh thích mai, nên đã tặng cho một cây mai quý, bao giờ cũng nở chậm nhất trong họ hàng nhà mai.

Ông bõ già bưng chậu mai ra. Nguyên Trừng tôi mở to mắt ngạc nhiên. Cây mai đã đẹp, riêng cái chậu hoa lam đẹp cũng chẳng kém. Đầu tiên ngắm nghía thưởng thức cái chậu. Vốn là họa sĩ nên tôi để ý ngay đến nét vẽ. Mới trông cứ tưởng cái chậu tầm thường vì chỉ vẽ mấy bông hoa cúc và mấy chiếc lá cúc. Người nghệ nhân đã dùng cây bút lông, chắc đã vẽ một mạch liên tục ba bông hoa cúc, một bông đang đơm nụ, hai bông kia còn hàm tiếu; bông nụ thì no tròn đầy đặn, hai bông hàm tiếu thì lô xô, có cánh nhô lên, có cánh đã xòe ra như đang run rẩy trong gió đông. Người thợ gốm thường hay vẽ những bông cúc nở xòe cân đối, đều đặn. Còn ở đây không phải thợ gốm mà một danh họa nào đó đã mượn chiếc chậu để vẽ một bức họa về loài hoa cao quý. Trong tôi hiểu kiểu vẽ này rất khó. Người nghệ sĩ phải phóng bút trên xương chậu lúc còn chưa nung. Chỉ vẽ một lần không thể vẽ lại, vẽ hỏng là hỏng, vẽ đẹp là đẹp. Lúc vẽ, nét mờ mờ nhợt nhạt, nhưng sau khi nhúng men cho vào lò, nét mờ kia mới hiện lên. Có thể nói người nghệ sĩ như nhắm mắt lại mà vẽ, thế mà đã tạo ra được những nét lung linh thật thần diệu.

Trừng tôi gật đầu:

- Có lẽ chiếc chậu này chỉ có một cái độc nhất?

- Đúng là độc nhất vô nhị. Người vẽ vốn một nhà thư họa. Sau khi tôi đánh Chế Bồng Nga trở về, lúc đó ngôi nhà này chưa xây cất, có một nho sinh mang chiếc chậu hoa đến. Anh ta nói: “Thưa tướng quân, để mừng tướng quân thắng trận làm cho muôn dân được nhờ, tôi định vẽ một bức họa, nhưng rồi lại nghĩ vẽ tranh trên gốm sứ sẽ bền lâu hơn, nên đã vẽ bức tranh hoa cúc trên chậu này... để tỏ lòng thành, kính trọng.” Tôi nói: “Chiếc chậu thật quý?” “Vâng, tôi không vẽ chiếc thứ hai giống thế này nữa. Trên đời này chỉ có một người như tướng quân, thì chiếc chậu cũng phải là độc nhất!” Tôi cảm động, mang tiền, lụa ra biếu nhưng anh ta không nhận.

- Thật lạ lùng! Đệ thấy nét vẽ này quen quen, hình như đã gặp nó ở đâu rồi... nhất là những chiếc lá cúc, à cả những bông cúc hàm tiếu kia nữa.

- Huynh đố đệ đấy?

- Tùng... cúc... trúc... mai... phải, ông Chu Công Đán đứng dưới gốc tùng già, ông Khổng Minh đang đi trong rừng trúc, ông Tô Hiến Thành đang ngắm chậu hoa cúc. Phải, đệ nhớ rồi, đúng là những bông hoa cúc ấy. Chỉ có khác là ở bức tranh có những bông cúc đã nở rồi. Đúng, rất giống nét trong bốn bức tranh tứ phụ mà đệ đã trông thấy ở nhà. Bốn bức tranh thượng hoàng Nghệ Tông đã ban cho cha đệ.

Trần Khát Chân giọng bỗng trở nên xúc động:

- Phải! Chính người nho sinh vẽ chậu đã vẽ tranh tứ phụ. Dạo đó Nghệ Hoàng ốm, thượng hoàng muốn vẽ tranh tứ phụ để ban tặng thái sư, lão huynh đã tiến cử người nho sinh này. Huynh nhớ, anh ta yêu cầu dọn một căn nhà nhỏ tĩnh mịch, cấm không cho ai lai vãng. Lại sai đốt trầm liên miên, và anh ta vẽ suốt ngày đêm, vẽ như một người say. Chỉ ngơi tay lúc ăn. Có đêm vẽ dưới những ngọn bạch lạp. Có những bản vẽ đã đẹp, nhưng anh ta vẫn chưa ưng đem xé. Vẽ gần một tuần trăng mới xong. Vẽ xong, ngủ một giấc dài hai đêm một ngày. Ngủ xong, lại khăn gói xin đi. Giữ thế nào cũng không ở lại...

- Tên anh ta là gì?

- Phạm Kỳ Ngộ... Thường vẫn gọi Phạm Sinh.

- Anh ta ở đâu?

- Tôi muốn tiến cử anh ta, nhưng anh cảm tạ, không muốn. Nghe đâu hiện nay Phạm Sinh làm nghề bán chữ ở khu tháp Báo Thiên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay