Chiến hữu - Chương 23.2

Stefan Gregoleit, lập tức mời Georg ngồi vào bàn, đứng dậy và đọc bài diễn văn ngắn ngọn nhất và hay nhất đời ông. Ông nâng ly rượu gin sủi tăm của mình, nhìn quanh, rạng ngời hạnh phúc, và hét to "Pros't!" Rồi ông ngồi xuống và Alois mang ra các thứ giò lợn, xúc xích và khoai tây chiên mỏng. Ông chủ tiệc đem đến những ly cối đựng bia Pilsener.
"Ăn chầm chậm nhé, Georg," tôi nhắc. "Trước tiên, dạ dầy cậu cần phải thích nghi với thịt mỡ."
"Tớ cần phải thích ứng toàn thể con người tớ trước nhất," cậu nói và nhìn tôi.
"Không lâu lắm đâu," tôi nói. "Không so sánh gì cả, chỉ thế thôi. Rồi sẽ ổn."
Anh chàng gật đầu và cúi mọp trên dĩa thức ăn.
Bất thình lình có tiếng cãi nhau ở cuối bàn. Giọng nói oang oang của Potter vượt trên tiếng ồn của bửa tiệc. Ông nài ép một trong những khách mời, Bush, lái buôn xì gà, uống với mình, nhưng Busch từ chối, viện cớ phải dành bụng để được ăn nhiều hơn.
"Thậm vô lý," Potter gắt. "Muốn ăn, cần phải uống. Nếu uống, ông lại càng ăn được nhiều hơn."
"Rõ thối," Busch, một người cao, gầy với cái mủi tẹt và cặp kính gọng sừng, ồm ồm nói.
Potter nhảy dựng. "Rõ thối?' Ông nói với tôi như thế hả, đồ cú vọ thuốc lá?"
"Xin can," Stefan Grigoleit kêu gọi. "Không được cãi trong đêm Giáng Sinh."
Rồi ông bảo họ giải thích lý do chuyện lộn xộn và đưa ra một đáp án kiểu Salomon. Nên thử nghiệm. Trước mặt mỗi phe tranh chấp là những dĩa thức ăn kích thước như nhau chứa thịt, khoai tây và xúc xích. Những khẩu phần khổng lồ. Potter được phép uống bất kỳ thứ gì, Busch được quyền không uống. Để thêm phần hấp dẫn, cho đặt cuộc. Grigoleit lãnh việc tính toán.
Những ly bia xếp thành một tràng hoa chung quanh Potter, thỉnh thoảng điểm xuyết với những cốc nhỏ, như kim cương, đựng Steinhager. Cá ba ăn một cho Potter. Rồi Grigoleit làm hiệu khởi đầu.
Busch cần cù nhai nuốt, cúi người trên đĩa thức ăn. Potter chiến đấu ở vị thế thoáng, thẳng. Cứ mỗi ngụm bia rượu, ông ta lại phấn khởi reo "Pros't" với Busch, và được đáp trả bằng một cái nhìn khinh khỉnh.
"Tớ thấy đau bụng," Georg nói với tôi.
"Đi theo tớ." Tôi dẫn anh ấy vào phòng vệ sinh và ngồi chờ ở phòng ngoài. Hương thơm dịu dàng của nến hòa với tiếng lắc rắc và mùi khen khét của lá thông cháy. Và thình lình dường như tôi nghe được tiếng chân nhẹ nhàng yêu dấu, cảm được hơi thở ấm áp, và nhìn thấy đôi mắt ...
"Chết thật," tôi nói và đứng lên. "Chuyện gì xảy ra với mình đây?'
Cùng một lúc tôi nghe tiếng hò reo tở mở. "Potter! Hoan nghênh Aloysius!"
Hội Hỏa Táng thắng.
Ở phòng trong, xì gà được đốt và cognac được chuyền tay. Tôi tiếp tục ngồi gần quày rượu. Các cô gái hớn hở bước tới, thầm thì với nhau.
"Các cô định làm gì thế?" tôi hỏi.
"Tụi này sắp mở quà," Marian đáp.
"Ach, thế à," tôi tựa đầu lên quày rượu và cố tưởng tượng những gì Pat đang làm. Tôi hình dung phòng khách của dưỡng đường, lò sưởi và Pat ngồi ở một cái bàn cạnh cửa sổ với Helga Guttmann và một vài người khác mà tôi không biết. Xa xôi kinh khủng ... Một đôi khi tôi vẫn nghĩ rằng, có một ngày khi tôi thức dậy, tất cả mọi thứ đều sẽ chấm dứt, quên lãng, chìm đắm, chết đuối. Không có gì chắn chắn -- ngay cả kỷ niệm.
Chuông reo. Các cô gái tất tả đi qua phòng bi- da, như một bày gà mái trong giờ ăn. Rosa đứng đó với cái chuông. Chị vẫy gọi tôi.
Trên bàn bi-da dưới một cây Giáng Sinh nhỏ là những cái đĩa gói bằng giấy lụa. Trên mỗi đĩa có một mẩu giấy nhỏ ghi tên, bên dưới là quà các cô sẽ tặng nhau. Rosa đã chuẩn bị tất cả. Mỗi cô phải có một món quà cho cô khác, gói lại, đưa Rosa, và chị bày biện chúng trên đĩa.
Các cô hớn hở xô lấn nhau, như trẻ con hấp tấp tìm xem càng sớm càng tốt đã nhận được những gì.
"Em không tìm đĩa của em?" Rosa hỏi.
"Đĩa gì?"
"Đĩa của em. Em cũng có quà."
Đúng thế, tên tôi kìa, hai màu đỏ và đen, và viết hoa nữa chứ. Táo, hạt, cam -- một cái áo len Rosa tự tay đan, một cà vạt xanh lục xám từ bà chủ tiệc, một đôi vớ hồng bằng lụa nhân tạo chính cống từ KiKi, một thắt lưng da rất đẹp từ Wally xinh xắn, nửa chai rum từ Alois người hầu bàn, nửa chục khăn tay của Marian, Lina, và Mimi hùn lại, và hai chai cognac của ông chủ tiệc.
"Ôi chao," tôi nói, "ôi chao, nhưng em chẳng mảy may ngờ."
"Ngạc nhiên, hả?" Rosa kêu to.
"Vô cùng."
Tôi đứng đó bối rối, và, chết thật, xúc động tận xương tuỷ.
"Các chị," tôi nói,"các chị có biết lần cuối tôi được quà Giáng Sinh là khi nào không? Tôi còn chẳng nhớ. Hẳn phải trước chiến tranh. Nhưng tôi lại không có gì để tặng các chị!"
Tôi hoàn toàn không hiểu được một niềm hạnh phúc mãnh liệt đang òa vỡ quanh tôi.
"Nhưng cậu luôn luôn đàn cho chúng tôi nghe," Lina nói, đỏ mặt.
"Phải đó, đàn vài bản cho chúng tôi, đó là quà của cậu."Rosa nói.
" "Tất cả những bài các chị thích," tôi nói. "Tất cả những bài các chị thích."
"Một bài nhắc nhở thời thơ ấu," Marian nói.
"Không, bài nào vui cơ." Kiki phản đối.
Anh bị áp đảo. Trong bấy kỳ tình huống nào, gần như không bao giờ anh được coi như một người đàn ông. Tôi ngồi trước dương cầm và bắt đầu. Mọi người hát theo.
Từ thời thơ dại -- có một bài ca đến với tôi ...
Ôi, đã xa lắm rồi -- nơi từng là quê hương
Bà chủ tiệc tắt hết đèn điện. Chỉ còn ánh sáng mơ màng của những ngọn nến. Vòi của vại bia róc rách như khe suối trong rừng và Alois chân bẹt đi tới đi lui ở hậu trường như Pan, thần chăn nuôi tóc đen. Tôi đàn qua lời thứ nhì. Với những đôi mắt long lanh và gương mặt sáng sủa của tầng lớp trung lưu, các cô đứng quanh đàn dương cầm -- nhưng nhìn kia, ai đang sụt sùi? Kiki, Kiki quê ở Luckenwalde.
Cửa phòng câu lạc bộ mở nhẹ nhàng. Ban hợp xướng, ngâm nga, theo nhịp quân hành, chân đá cao, bước ra xếp thứ tự đàng sau các cô, Grigoleit dẫn đầu với điếu xì gà Ba Tây.
Lần đầu khi tôi nói lời chia tay --thế giới dường như trọn vẹn,
Lúc tôi trở lại --không còn chi nữa!!!
Bản hợp ca nhẹ nhàng chấm dứt. "Hay quá," Lina nói.
Rosa đốt những cây nến ảo thuật. Chúng kêu xèo xèo, phun phì phì.
"Rồi, bây giờ đến lúc vui nhộn chứ, " chị nói. "Chúng ta phải giúp cho Kiki vui lên."
"Cả tôi nữa," Stefan Grigoleit nói.
Lúc mười một giờ Koster và Lenz đến. Với Georg, vẫn xanh xao, chúng tôi ngồi ở một bàn cạnh quầy rượu. Chúng tôi đưa Georg ăn vài miếng bánh mì khô cho chắc bụng. Chẳng bao lâu Lenz đã biến mất trong đám hỗn độn những người chăn gia súc. Mười lăm phút sau anh xuất hiện ở quầy với Grigoleit. Hai người khóa cánh tay và thề thốt tình huynh đệ đời đời.
"Stefan," Grigoleit nói.
"Gottfried," Lenz đáp và cả hai nốc cạn ly.
"Ngày mai tớ sẽ gởi cậu một gói xúc xích huyết và gan, Gottfried. Được không?"
"Vô cùng thích hợp." Lenz vỗ vai ông ta."Stefan tốt bụng thật!"
Stefan rạng rỡ. "Cậu có giọng cười hay tuyệt," ông nói, "tôi thích những người cười nói vui vẻ. Tôi dễ bị trầm cảm, đó là nhược điểm của tôi."
"Tôi cũng vậy," Lenz nói, "vì thế tôi hay cười, lẽ dĩ nhiên. Bob, tới đây, uống một ly với chúng tôi, những quán quân cười mãi không thôi."
Tôi đến bên họ. "Cái cậu kia thì sao?" Stefan hỏi, chỉ vào Georg."Trông cậu ấy cũng sầu thảm lắm."
"Tuy thế, chẳng cần nhiều mấy để cậu ấy hạnh phúc," tôi nói. "Cậu ấy chỉ cần một việc làm khiêm tốn."
"Không dễ tìm," Stefan nói, "thời buổi này."
"Cậu ấy sẽ làm bất cứ công việc gì."
"Ai cũng sẽ làm bất cứ công việc gì, trong thời buổi này." Stefan tỉnh táo ra.
"Cậu ấy chỉ cần bẩy mươi lăm marks mỗi tháng."
"Không thể nào được. Cậu ấy không thể sống nổi."
"Cậu ấy quả tình sống chỉ với số tiền ấy," Lenz nói.
"Gottfried," Grigoleit đáp, "Tôi là một thằng già ghiền rượu. Tốt thôi. Nhưng công việc là một vấn đề nghiêm chỉnh. Không phải thứ mà ta cho ra hôm nay và lấy lại ngày mai. Như thế còn tệ hơn để một người cưới vợ và bắt đi bà vợ sáng hôm sau. Nhưng nếu cậu ấy thật thà và có thể sống chỉ với bẩy mươi lăm marks, hẳn cậu ấy đã trải qua một thời kỳ đen tối. Cậu ấy có thể đến gặp tôi, tám giờ sáng thứ ba. Tôi cần một phụ tá điều hành trại chăn nuôi và những thứ khác. Thỉnh thoảng tôi sẽ thưởng thêm dăm ba gói thịt. Cậu ấy gầy trơ bẹ sườn, cần ăn cho đầy đặn một chút."
"Hứa danh dự chứ?"
"Lời nói danh dự của Stefan Greigoleit."
"Georg," tôi gọi. "Đến đây một phút."
Anh run lên khi nghe tin. Tôi trở lại với Koster.
"Nghe này,Otto," tôi nói, "nếu có thể sống cuộc đời mình một lần nữa, cậu có muốn không?"
"Như cuộc đời cũ?"
"Vâng."
"Không."
"Tớ cũng thế," tôi nói.