Chiến hữu - Chương 09.2
Tôi ngồi thẳng lên và lắng nghe. Cái gì thế? Chúng tôi đang ở đâu? Trên cung trăng? Đấy là một ban hợp ca, trời đất! -- một ban hợp ca giọng nữ hai bè.
"Kẻ tội đồ, kẻ tội đồ, hãy đứng lên!" âm thanh vang dội khắp nghĩa trang thành nhịp quân hành.
Tôi chằm chặp nhìn Pat. "Em có biết chuyện gì không?" tôi hỏi.
"Hãy đến chốn bao dung --" bài hát tiếp tục với nhịp điệu nhanh.
Thình lình tôi hiểu ra. "Lieber Gott! Đạo Quân Cứu Rỗi!"
"Chớ để cho tội lỗi tràn lan --" những bóng đen thúc dục, âm thanh dồn dập lên cao.
Ánh sáng chập chờn trong đôi mắt nâu của Pat. Môi nàng run giật, đôi vai so lên.
Không thể cưỡng lại, bài hát chuyển sang hùng tráng --
Địa ngục rực lửa và nỗi đau bỏng cháy
là phần thưởng của tội lỗi;
Jesus gọi: -- trước khi quá trễ
kẻ hoang đàng, đến đây sám hối.
"Nín đi, trời ơi," thình lình một giọng nói phẫn nộ trong sương mù hét lên.
Một thoáng im lặng vì bất ngờ. Nhưng Đạo Quân Cứu Rỗi đã quen với những thứ rắc rối. Ban hợp xướng lại bắt đầu hát với một sức mạnh mới.
"Người sẽ làm gì trong thế giới đơn côi --" ban nhạc đồng lọat ca.
"Ôm ấp nhau chứ còn gì nữa," tiếng nói giận dữ lại oang oang; "Ngay cả nơi đây cũng không được yên thân sao?"
"nơi quỷ kế của Satan sẽ quyến rũ ---" một giọng lanh lảnh bất thần đáp lại.
"Đàng ấy có ngon thì quyến rũ đây xem," từ trong sương mù, ai đó tức thì đáp lại.
Tôi phá lên cười. Và Pat cũng không nhịn nỗi. Chúng tôi cười rũ rượi vì cuộc song đấu trong nghĩa trang này. Đạo Quân Cứu Rỗi biết rằng băng ghế nơi đây là chỗ an trú cho những cặp tình nhân cần sự tỉnh mịch không tìm đâu ra trong thành phố ồn ào. Do đó họ quyết tâm hạ đòn thuyết giảng. Họ hành quân mỗi Chúa Nhật để cứu vớt những linh hồn. Ngoan đạo, cuồng tín và to họng, những giọng hát không chuyên the thé truyền giảng niềm tin của họ, trong lúc tiếng Tây Ban Cầm bập bùng, wumba-wumba.
Nghĩa trang trở nên sinh động. Tiếng cười khúc khích và tiếng hét hò vang lên trong sương mù. Dường như mỗi băng ghế đều có người ngồi. Cuộc nổi loạn đơn độc của tình yêu đã nhận được hậu thuẩn vô hình của những người đàn ông cùng một suy nghĩ khắp nơi. Một ban hợp ca đối lập được dựng nên. Trong số đó, hẳn phải có một cựu chiến binh yêu thích nhạc quân hành -- bởi chẳng mấy lúc đã vang lên từ những buồng phổi khỏe mạnh bài ca bất tử: "Tôi đã đến Hamburg và ngắm nhìn thế giới đẹp tươi."
"Đừng giữ nguyên tấm lòng cứng rắn..," từ ban hợp xướng khổ hạnh, một lần nữa tiếng hát nheo nhéo lại vang lên, vì Đạo Quân Cứu Rỗi với những chiếc mũ to, vành kẹp cong đang cảnh giác cao độ.
Nhưng cái ác đã thắng. "Em sẽ không cho biết tên, " -- mười mấy cái khí quản cường tráng ngân nga một bài đối nghịch, -- "vì em là cô gái ăn sương..."
"Anh nghĩ mình nên ra về thì hơn," tôi nói với Pat. "Anh biết bài ấy. Lời dài lắm, và mỗi câu về sau lại càng nhảm nhí hơn câu trước. Đi thôi em"
Thành phố lại có mặt với âm thanh huyên náo -- tiếng còi xe, tiếng bánh xe lăn trên đường. Nhưng nó vẫn giữ được vẻ duyên dáng. Sương mù biến xe buýt thành những con thú trong thần thoại, xe hơi thành những chú mèo hoang mắt sáng, và cửa sổ trưng bày hàng hóa thành hang động vui mắt của thần đèn Aladdin.
Chúng tôi xuống phố, vòng quanh nghĩa trang, xuyên qua khu công viên giải trí. Những vòng đu quay vươn lên cao trong trời sương mù như những tháp nhạc xoay tròn, bánh xe của quỷ phun ra sắc tím, sắc vàng và những chuỗi cười, và mê cung óng ả ánh lửa xanh.
"Mê cung thiêng liêng!" tôi nói.
"Tại sao?" Pat hỏi.
"Có một lần chúng ta đã vào đấy."
Nàng gật đầu.
"Anh có cảm tưởng đã lâu vô tận."
"Vậy bây giờ ta nên trở lại hay không?"
"Không," tôi nói. "đừng đi nữa. Em có muốn uống gì không?"
Nàng lắc đầu. Trông nàng thật đáng yêu. Sương mù như một thứ nước hoa dịu nhẹ, càng làm nàng thêm xinh đẹp.
"Em không mệt à?" tôi hỏi.
"Không, em chưa mệt."
Chúng tôi đi qua các quán thẩy vòng. Những ngọn đèn khí đá với ánh sáng sáng trắng, lập lòe treo đàng trước. Pat nhìn tôi. "Không," tôi nói, "hôm nay anh không thảy vòng. Không thảy cái nào hết. Cho dù có thắng nguyên hầm rượu mạnh của Alexander Đại Đế."
Chúng tôi tiếp tục đi, băng qua quảng trường và công viên thành phố. "Hẳn có Daphne Indica đâu đây," Pat nói.
"Vâng, ta có thể ngửi được hương thơm của nó bay qua sân cỏ. Không còn ngờ nữa. Em có nghĩ vậy không?"
Nàng nhìn tôi. "Chắc chắn là thế," nàng nói.
"Có lẽ đang mùa hoa nở. Khắp thành phố, đâu đâu cũng nghe hương của thứ hoa này."
Tôi nhìn quanh, tìm một băng ghế trống. Nhưng không biết vì Daphne Indica hay vì hôm nay là Chúa Nhật, hay vì chính chúng tôi, tôi không thấy một cái ghế trống nào. Đâu đâu cũng có người. Tôi nhìn đồng hồ tay. Hơn mười hai giờ.
"Nào," tôi nói, "về nhà anh -- nơi ấy sẽ có một mình chúng ta."
Nàng không trả lời, nhưng chúng tôi trở về. Ở nghĩa trang, chúng tôi thấy một chuyện bất ngờ. Đạo Quân Cứu Rỗi đã gọi viện binh. Ban hợp ca giờ đây xếp hàng tư: không phải chỉ có các bà, mà còn có hai hàng sư huynh mặc đồng phục hẳn hòi. Tiếng hát không chỉ hai bè và the thé, mà bốn bè, như tiếng phong cầm. Theo điệu luân vũ, "Jerusalem thánh địa vàng" vang dội trầm hùng giữa các mộ bia.
Bên đối phương im phăng phắc. Họ đã bị càn quét tan tành. "Kiên trì," như ngài hiệu trưởng cũ của tôi thường nói, "kiên trì và cần mẫn còn tốt hơn cả thiên tài và phóng dật."
Tôi đóng cửa. Suy nghĩ một lúc, tôi lại bật đèn. Hành lang như một cái ống dài hun hút, vàng vọt và xấu xí.
"Nhắm mắt lại đi em," tôi khẽ nói với Pat. "Đây là cảnh tượng chỉ dành cho những bộ thần kinh vững vàng." Tôi bế nàng trong tay, và bước bình thường, như thể chỉ có một mình tôi, chậm rãi qua những hòm xiểng và bếp ga, về phòng mình.
"Kinh khủng quá, hở em?" tôi ngượng ngùng nói, nhìn biển nhung mềm trãi dài chào đón. Không còn ghế bành gấm, thảm, và đèn của Hasse.
"Có gì kinh khủng đâu," Pat nói.
"Có mà," tôi trả lời, đi đến cửa sổ. "Nhưng ít ra quang cảnh cũng đẹp mắt. Chúng ta kéo ghế bành đến gần cửa sổ nhé."
Pat đi quanh phòng. "Không tệ lắm đâu. Tuyệt nhất, là phòng rất ấm."
"Em lạnh ư?"
"Em thích ấm," nàng nói. "Em không chịu được trời lạnh và mưa."
"Trời ơi -- thế mà chúng ta ngồi ngoài đường dưới sương mù cả đêm --"
"Nhưng như thế lại càng quý hơn khi được ngồi đây."
Nàng vươn vai, và một lần nữa với dáng đi tuyệt đẹp, dạo một vòng quanh phòng. Tôi hổ thẹn, quan sát thật nhanh -- lạy trời, không đến nỗi bừa bãi cho lắm. Tôi nhanh trí đá hậu đôi giày đi trong nhà đã hỏng, vào gậm giường.
Pat đứng trước tủ quần áo, nhìn lên. Trên nóc tủ có một cái va -li cũ Lenz đã cho tôi. Va-li dán đầy nhãn hiệu màu sắc từ những chuyến du lịch của anh. "Rio de Janeiro," nàng đọc; Manaos -- Santiago, Buenos Aires -Las Palmas --"
Nàng đẩy cái va -li vào chỗ cũ và đến gần tôi. "Anh đã đi tất cả các nơi ấy?"
Tôi ấp úng một điều gì đó. Nàng nắm tay tôi.
"Ôi, anh kể cho em nghe với, về tất cả các thành phố ấy, phải tuyệt vời lắm, được du lịch xa đến thế --"
Và tôi? Trước mặt tôi là nàng, đẹp, trẻ, mong chờ, một cánh bướm tình cờ lạc vào căn phòng tồi tàn xơ xác của tôi, vào cuộc đời vô nghĩa tầm thường của tôi, với tôi và tuy thế chưa hẳn đã với tôi --chỉ một hơi thở cũng có thể làm nó tỉnh dậy và vỗ cánh bay đi... Cứ đổ lỗi, cứ kết tội tôi, nhưng tôi không thể, tôi không thể nào nói Không, không thể nào nói rằng tôi chưa bào giờ đến đấy; chưa kịp đến ...
Chúng tôi đứng bên cửa sổ, sương mù ép lại và vỡ thành từng đợt sóng vỗ vào ô kính -- và tôi cảm thấy ẩn nấp đàng sau đó những bí mật, những thứ bị lấp liếm, những thứ đã qua, những ngày kinh hoàng ẩm ướt, những hoang phế điêu tàn, những nhơ nhớp bẩn thỉu, những mảnh vụn của cuộc đời bị hủy hoại, những phức tạp, những lãng phí sức mạnh do hướng dẫn sai lầm trong một cuộc sống vô mục đích; nhưng ở đây, trước mặt tôi trong bóng tối, gần bên tôi đến mức choáng váng, là hơi thở nhẹ nhàng, là sự hiện diện không thể nào hiểu -- một sinh vật ấm áp, trong sáng -- tôi phải giữ lấy, tôi phải chiếm được.
"Rio -- " tôi nói. "Rio de Janeiro -- một hải cảng như trong truyện thần tiên. Biển lấn cong bẩy chỗ chung quanh vịnh và thủ đô nằm trên cao, trắng và sáng chói..." Tôi bắt đầu nói về những thành phố nóng bức, những cánh đồng vô tận, thủy triều vàng của những trường giang hùng vĩ, những hòn đảo lung linh, những cá sấu, những con đường xâm lấn núi rừng, tiếng gầm của một con báo trong đêm, khi thuyền trên sông trôi êm trong sự thối rữa ngột ngạt, thơm mùi vanilla và phong lan của bóng đêm. Lenz đã kể cho tôi nghe tất cả những chuyện ấy, nhưng giờ đây hầu như chính tôi đã có mặt tại chỗ, thật lạ lùng thay sự pha trộn của ký ức và ước muốn vay mượn một chút quyến rũ cho cuộc đời tầm thường, tăm tối không có gì cả của tôi, để không đánh mất gương mặt đáng yêu khôn tả này, hy vọng đột ngột này, sự nở hoa thần diệu này mà chỉ việc ấy mà thôi, tôi cũng chẳng xứng đáng. Sau này tôi có thể giải thích tất cả, sau này khi tôi có nhiều hơn, khi tất cả mọi thứ đều vững chải hơn -- sau này, chứ không phải bây giờ.
"Manaos," tôi nói. "Buenos Aires . .." Và mỗi chữ là một cam kết và một ước thề.
Đêm. Bên ngoài mưa bắt đầu rơi. Những giọt mưa nhẹ nhàng, êm ái. Chúng không vỗ lộp bộp như một tháng trước đây khi chạm vào những cành đoan trơ trụi -- chúng đang lắt lay những chiếc lá non mềm; ép vào mặt lá và tí tách rơi theo lá, một lễ hội huyền bí và âm thầm xuôi chảy đến rể cây, nơi đó chúng sẽ lại được đưa lên cao và biến trở thành lá, một lần nữa đợi chờ mưa đến trong những đêm xuân vừa chớm.
Không gian yên tỉnh. Tiếng ồn ào của đường phố đã lặng; ngọn đèn đường duy nhất leo lắt soi trên vĩa hè. Những chiếc lá non, chiếu sáng từ bên dưới, hầu như trắng muốt, hầu như trong veo, và ngọn cây là những cánh buồm sáng, long lanh...
"Lắng nghe tiếng mưa rơi, Pat--"
"Vâng,"
Nàng nằm bên tôi. Mái tóc của nàng nổi bật trên nền gối trắng. Gương mặt nàng trông rất xanh xao dưới màu tóc đen thẩm. Một vai của nàng nhô lên, dưới ánh sáng nào đó, óng ả như đồng chạm, và một vệt sáng dài, hẹp rọi trên cánh tay nàng.
"Nhìn đây --," nàng nói, và đưa hai bàn tay hứng vệt sáng ấy.
"Anh đoán là đèn đường ngoài kia rọi vào," tôi nói.
Nàng ngồi lên. Giờ đây, gương mặt nàng cũng được chiếu sáng, ánh sáng rơi trên đôi vai và bộ ngực nàng, vàng, như lửa mồi của những ngọn bấc vuốt sáp, thay đổi, tan chảy, chan hòa với nhau, biến thành sắc cam; những vòng tròn xanh biếc nhảy nhót xuyên qua, và rồi bất ngờ một màu đỏ ấm áp hiện lên phía sau nàng như một vầng hào quang, lướt lên cao và lang thang trên trần.
"Đó là đèn của bảng quảng cáo thuốc lá bên đường," tôi nói.
"Thấy chưa, phòng của anh rất đẹp," nàng nói.
"Nó đẹp nhờ có em," tôi nói. "Nó sẽ không bao giờ trở lại như xưa -- bởi em đã hiện diện nơi đây."
Nàng quỳ trên giường, một vùng ánh sáng xanh tái tưới đẩm cả người. "Nhưng," nàng nói, "bây giờ em sẽ thường đến đây -- thường xuyên."
Tôi nằm im ngắm nàng. Tôi nhìn thấy mọi việc như đang xảy ra trong một giấc mơ dịu dàng, trong sáng -- thư giãn, kiên quyết, an bình và rất hạnh phúc.
"Em như thế đẹp làm sao, Pat. Đẹp hơn trong bất kỳ bộ y phục nào."
Nàng mỉm cười và cúi xuống. "Hẳn là anh yêu em, Robby. Yêu nhiều lắm. Em rất cần tình yêu. Em không biết em sẽ ra sao, nếu không có tình yêu."
Nàng nhìn tôi không rời mắt. Mặt nàng kề trên mặt tôi. Phấn khích, thẳng thắn, đầy sức mạnh của đam mê.
"Anh hãy ôm em," nàng khẽ nói, "Em cần một người giữ em trong tay. Em sợ, nếu không em sẽ ngã."
"Em không có vẻ gì là sợ hãi," tôi nói.
"Tuy thế lại có đấy. Em chỉ giả vờ không sợ hãi. Em thường hay sợ hãi."
"Anh sẽ giữ em, Pat," tôi nói, vẫn còn trong giấc mơ siêu thực nửa mê nửa tỉnh ấy, giấc mơ trong sáng lững lờ ấy. "Anh sẽ giữ em thật chặt, Pat. Em sẽ ngạc nhiên."
Nàng ấp mặt tôi trong tay nàng. "Thật ư?"
Tôi gật đầu. Đôi vai nàng sáng lục như màu nước sâu. Với tiếng kêu tức tưởi, nàng quăng mình vào, một ngọn sóng, một ngọn sóng lóng lánh, một ngọn sóng có hơi thở mềm mại, nhẹ nhàng dâng lên và dập tắt tất cả mọi thứ.
Nàng ngủ ngoan trong tay tôi. Tôi thường tỉnh giấc và ngắm nàng. Tôi nghĩ, đêm sẽ không bao giờ tàn. Chúng tôi đã trôi dạt tới một bến bờ nào đó của thời gian. Tất cả đã xảy ra rất nhanh, tôi không thể lý giải. Tôi biết, như một người đàn ông, tôi có thể là một chiến hữu tốt; thế nhưng tôi không thể tưởng tượng, tại sao một người đàn bà lại có thể yêu tôi. Tôi nghĩ có lẽ chuyện ấy chỉ xảy ra đêm nay, và tôi tin rằng khi thức dậy, tất cả sẽ chấm dứt.
Đêm đen chuyển thành xám. Tôi vẫn nằm yên. Cánh tay cho Pat gối đầu đã tê dại. Nhưng tôi vẫn để yên. Chỉ đến khi nàng trở mình và tựa vào gối, tôi mới rút tay ra. Tôi rón rén bước xuống giường, đánh răng trong im lặng và cạo râu. Tôi bôi một ít eau de cologne lên tóc và vai. Thật kỳ dị, không một tiếng động trong căn phòng xám, với những ý nghĩ ấy, và những dáng cây đen sẫm bên ngoài.
Khi quay lại, tôi thấy Pat đã mở mắt nhìn tôi. Tôi dừng chân.
"Đến đây" nàng nói.
Tôi đến bên nàng và ngồi xuống cạnh giường.
"Tất cả vẫn là thực?" tôi hỏi.
"Tại sao anh hỏi thế?" nàng nói.
"Anh không biết. Có lẽ, bởi vì buổi sáng."
Trời sáng hơn.
"Em cần anh đưa dùm em những thứ của em," nàng nói.
Tôi nhặt những mảnh lụa mỏng trên sàn. Chúng nhẹ tâng và bé xíu. Tôi ôm chúng trong tay. Ngay cả chuyện này cũng đã khác biệt, tôi nghĩ. Người có thể mặc những thứ này hẳn phải khác biệt. Tôi không bao giờ hiểu nổi, không bao giờ.
Tôi đưa nàng những thứ ấy. Nàng quàng tay qua cổ tôi và hôn tôi. Tôi ôm nàng thật chặt. "Pat," tôi gọi tên nàng.
Rồi tôi đưa nàng về. Chúng tôi không nói với nhau nhiều nữa. Chúng tôi đi cạnh nhau trong bình minh ánh bạc. Xe chở sữa lọc cọc trên mặt đường trải đá và nhật báo đang phân phối. Ông lão ngủ gục trước căn nhà. Hàm đánh cầm cập như không bao giờ ngưng. Những người cởi xe đạp tíu tít với các giỏ bánh mì. Mùi bánh mì mới nướng, thơm ấm tỏa trên đường phố. Tít trên cao, một chiếc máy bay lướt qua nền trời xanh.
"Hôm nay?" bên ngoài cửa, tôi hỏi Pat.
Nàng mỉm cười.
"Khoảng bẩy giờ?" tôi hỏi.
Nàng không có vẻ mệt mỏi. Nàng tươi mát như vừa có một giấc ngủ tròn đầy. Nàng hôn tôi từ giã. Tôi đứng bên ngoài, chờ đến khi đèn của phòng nàng bật sáng.
Rồi tôi quay về. Trên đường, tôi chợt nghĩ ra nhiều thứ đáng lẽ tôi nên nói với nàng, những lời mỹ miều. Tôi lang thang trên đường, suy nghĩ về tất cả những thứ tôi nên nói và nên làm, nếu như tôi là một người khác. Rồi tôi đi ra chợ. Những chuyến xe ngựa chở đầy rau trái, thịt thà và hoa tươi đã có mặt. Tôi biết với cùng một số tiền, tôi có thể mua được nhiều gấp ba lần hoa ở chợ so với ở tiệm bán hoa. Tôi trút tất cả tiền trong túi, mua tulips. Chúng trông tuyệt vời, tươi thắm với những giọt nước còn đọng trong lòng. Tôi được một bó ôm đầy tay. Bà hàng hoa hứa sẽ giao tận nhà Pat vào khoảng mười một giở. Bà cười tôi trong khi hứa, và thêm một bó to violets.
"Cô ấy sẽ có những người bạn này trong nửa tháng là ít," bà nói. "Chỉ cần thỉnh thoảng thả một viên aspirin vào nước."
Tôi trao tiền cho bà. Rồi tôi thong thả đi bộ về nhà.