Có Duyên Nhất Định Sẽ Có Phận - Chương 21 (Hết)
Chương 21 - An Lương
Bộ phim đó nói về cái gì, tôi không hề biết.
Đầu óc tôi vẫn đang suy nghĩ về những điều An Lương vừa nói, nghĩ về những năm qua, cậu ấy đối tốt với tôi như thế nào. Còn tôi, vì Alawn và Leo, đã hoàn toàn phớt lờ tấm lòng ấy.
Giờ đây, khi lần lượt nhớ lại từng điều một, nếu như tôi có thể trân trọng, vậy thì đã hạnh phúc biết bao.
Xem phim xong, An Lương đưa tôi trở lại bệnh viện rồi rời đi. Cậu ấy sắp đi rồi, tôi có cảm giác hoảng loạn một cách khó hiểu.
Năm năm quen biết, trong lòng tôi chỉ có một mình Alawn, còn giờ đâyu, An Lương - người đã luôn nằm ngoài tâm trí tôi đang từ từ rút khỏi thế giới của tôi... Một cảm giác đau thương, lờ mờ, mang máng, giống như con sóng ngoài biển khơi, cứ nhẹ nhàng từng đợt từng đợt dội vào lồng ngực tôi.
Năm năm trôi đi mất, những bộ phim còn chưa xem hết ấy, có còn muốn xem?
Những trang nhật ký còn chưa ghi hết, có còn muốn viết tiếp?
Những điều chưa nói ra, có còn muốn nhắc lại?
Những ngượng ngùng chưa kịp thu về, có còn muốn phơi bày trên khuôn mặt?
Nụ hôn nảy nở trong lòng đã nhiều năm vẫn chưa thực hiện được, có còn muốn nhắm mắt lại để hân hoan?
Còn bức ảnh đã ố vàng, còn chiếc lá rụng đã thành đất từ lâu. Năm năm huy hoàng có cậu ấy bên cạnh làm bạn, hoặc là thời thanh xuân ngớ ngẩn hay tội lỗi... còn cả bài hát mà khi xưa chúng tôi cùng chạy nhảy ngân nga, cũng đều già cỗi đi cùng năm tháng rồi. Có đúng vậy không?
Giờ đây cậu ấy muốn ra đi, những ngày tháng hồn nhiên trong sáng cũng sắp kết thúc rồi ư, có đúng vậy không?
Tôi ngây người thẫn thờ, rồi túm lấy vạt áo của cậu ấy, hỏi: “Ngày mai, anh thật sự không đến nữa ư?”.
Cậu ấy lắc đầu.
Tôi lại hỏi, thế còn ngày kia. Giống như một đứa trẻ đang nằng nặc đòi được ăn kẹo vậy.
Mắt An Lương đỏ ngầu, khom lưng xuống ôm lấy tôi, đưa tay vỗ vỗ lưng tôi.
Giây phút ấy, một câu nói không cần thông qua đại não đã bật ngay ra khỏi miệng, tôi vùi đầu vào lớp áo có mùi thơm thoang thoảng của An Lương, nói: “Anh có thể cho em thời gian, để em quen biết lại anh không?”.
An Lương nhìn tôi ngạc nhiên không biết phải làm sao, giống như đang nhìn một người kỳ quặc xa lạ.
Vẫn yên lặng.
Trái tim tôi trở nên ảm đạm. Nghĩ lại bản thân mình, sống chung với Leo, hoan lạc với Alawn trên đỉnh núi, tôi còn mặt mũi nào hưởng thụ tình yêu vĩ đại của An Lương nữa đây.
Từ trước tới giờ, chưa có giây phút nào tôi khát vọng khung cảnh ấy như lúc này: dưới bầu trời xanh thẳm, những đám mây thuần khiết cuộn tròn. Ánh mặt trời đẹp đẽ, dịu dàng ấm áp chiếu lên người tôi. Tôi đứng dưới tán cây hoa quế rộng lớn, đi đôi tất cotton dài và một chiếc váy xếp nhiều ly màu xanh, thế giới cũng không cần quá thảnh thơi thoáng đãng, chỉ là tôi
muốn vẫn được trong sáng như ngày xưa, có thể hào phóng vẫy tay chào anh bạn học An Lương, rồi nói : “Hi, em vẫn thuần khiết như ngày xưa”.
Tôi cúi đầu xuống, khe khẽ lẩm bẩm: “Anh cảm thấy em không đủ tốt sao?”.
Nhưng ngay một giây sau đó, cậu ấy lại ôm chầm lấy tôi, xoay tròn một vòng rồi hét toáng lên
như một đứa trẻ: “Lạc Lạc! Lạc Lạc vạn tuế! Lạc Lạc là nhất trên đời!” Đó là lần đầu tiên, suốt nhiều năm từ khi quen biết An Lương đến nay, tôi thấy cậu ấy cười vô tư, không cần
giữ ý như vậy. Vẻ u ám khi sắp chia tay ban nãy đã hoàn toàn biến mất, chỉ trong chốc lát, tâm trạng của tôi cũng chuyển từ nhiều mây sang hửng nắng, rực rỡ sáng lạn vô cùng. Tôi cười hì hì, hỏi: “Tại sao lại bảo em là nhất trên đời?”.
“Đáng yêu nhất trên đời.” Cái anh chàng ngốc An Lương này, đến những lời tình tứ cũng không biết nói.
Nhưng tôi lại có thể chìm đắm trong những lời tình tứ không mấy sinh động đó, bật ra tiếng cười vô tư từ tận đáy lòng. Đó là lần đầu tiên, trong nhiều năm qua, lòng tôi lại rộng mở như
vậy.
An Lương quả thực rất chiều chuộng tôi. Bản tính tôi vốn không chịu ngồi yên, vừa cảm tính lại vừa lãng mạn, khát vọng những ngày tháng phiêu lưu, đắm đuối theo sự lang thang lãng mạn. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi càng có thêm nhiều thời gian và tiền bạc, cho phép tôi có thể khoác ba lô và máy ảnh lên vai, lang thang suốt từ Nam ra Bắc. Chỉ một nỗi bực dọc nho nhỏ là đủ lý do để tự thuyết phục bản thân một mình đặt chân lên đoàn tàu phiêu du lên phía
Bắc hoặc xuống phía Nam, ra đi mà không cần từ biệt. Dùng máy ảnh để chụp lại bầu trời xám xịt hoặc xanh thẳm, chụp lại từng ngọn đèn đường cô độc ở mỗi nơi. Tự cho rằng đó là
sự phóng khoáng, tự cho rằng đó là văn nghệ.
Không có ai biết rằng, tất cả những việc ấy tôi và Alawn đã từng hẹn làm từ thời học sinh. Lúc ấy, chúng tôi cùng chung một giấc mơ, cùng chung một mối tâm tình.
Trong con mắt lý tính của một người đàn ông trưởng thành như An Lương, tôi ngây ngô đến mức buồn cười. Nhưng An Lương cũng không bóc mẽ những chuyện đó, để mặc tôi được tự
do thỏa chí. Cậu ấy biết rồi cũng có lúc tôi sẽ cảm thấy mệt mỏi, sẽ tự về nhà. Mỗi lần tôi lấm lem bụi đường trở về nhà, An Lương sẽ xót xa hỏi tôi: “Nhớ nhà rồi? Hay là nhớ anh rồi?”.
Tôi đã nói, trong cuộc đời này, tôi nhất định phải đến Tây Tạng một lần nhưng rất tiếc là vẫn chưa có dịp đến đó.
Hồi học đại học năm thứ nhất, tuyến đường sắt đến Thanh Tạng còn đang sửa chữa. Alawn đã hẹn với tôi, đợi khi nào tuyến đường sắt tới Thanh Tạng được khai thông, chúng tôi sẽ
cùng nhau đi Tây Tạng, dưới dãy núi tuyết hùng vĩ, cùng ngắm thảo nguyên bao la và đàn dê trắng muốt. Thiên đường ở gần bên, linh hồn được gột rửa, không liên quan gì tới gió trăng.
Alawn nói, ở nơi trong sáng thanh tịnh này, chúng tôi có một con dê trắng và một con dê đen, đó chính là hạnh phúc.
Giờ đây, tuyến đường sắt đi Thanh Tạng đã khai thông được một năm rồi, cũng không biết Alawn đã đi đến đó chưa, đến đó cùng với ai.
Tôi đã đến được Tây Tạng như đúng ý nguyện, đi tàu hỏa cùng với An Lương. Đường sắt tới Thanh Tạng thật dài, là ai đã xây dựng những tuyến đường dài như vậy, dài như những suy nghĩ liên miên không có điểm kết thúc của tôi.
Đã đến được Lạp Tát, đến được A Li. Bầu trời ở Tây Tạng còn xanh hơn cả trong tưởng tượng. Ánh nắng ở Tây Tạng còn trắng muốt và sáng lạn hơn bất kỳ sự miêu tả nào trong sách vở.
Bên hồ Ban Công ở huyện Nhật Thổ vùng A Li, gió thổi rất mạnh, thổi tung cả chiếc mũ tôi đang đội lên tận trời cao.
Không có đàn dê. Thảo nguyên cũng không xanh non như trong tưởng tượng, phía xa xa có một đàn trâu to béo đang gặm cỏ. Những dãy núi màu vàng nhạt đứng sừng sững uy nghiêm xung quanh hồ, tuyết còn đọng lại trên đỉnh núi, lấp lánh phát sáng dưới ánh mặt trời. Mây trắng dày đặc, thấp đến nỗi dường như chỉ cần giơ tay lên là có thể chạm vào chúng. Nước hồ xanh biếc, tĩnh lặng mà trong vắt, thật giống với đôi mắt của Leo. Có những chú chim màu trắng trập trùng bay qua bay lại trên mặt hồ.
Nơi đây không thể dùng những từ ngữ dung tục như “mỹ lệ” hay “tươi đẹp” để miêu tả được. Đây nhất định là nơi có thần linh canh giữ đêm ngày. Ởnơi đây, việc lưu lại những dấu vết tác động của con người là những hành động khinh nhờn thần linh. Đứng trước hồ Ban Công dài rộng mà tĩnh lặng này, chúng tôi can tâm tình nguyện trở nên nhỏ bé.
Đồ Đểu Alawn, anh đã đến nơi đây chưa? Tìm thấy con dê đen, con dê trắng chưa, còn cả niềm hạnh phúc của anh nữa? Là đã thay đổi rồi, hay là không cần nữa?
Tôi thật sự muốn nhảy xuống hồ, để dòng nước tuyết tan thần thánh trong sạch nhất của cao nguyên gột rửa sạch sẽ những luân thường thế tục sâu thẳm trong lòng tôi, những tình cảm phong hoa tuyết nguyệt trong tôi, còn cả người mà tôi muốn quên đi. Gột rửa toàn bộ!
Vậy là tôi đi đến bên hồ, thận trọng đưa tay nhúng xuống nước, lạnh thấu xương. Lúc đó, tôi ngồi tại nơi thánh khiết nhất trên thế giới, trong lòng cảm thấy yên tĩnh, nhưng lại không ngăn được những giọt nước mắt đang tuôn trào.
Trên đường về, An Lương tiện đường đưa tôi đi ngắm hoa hướng dương.
Không có BMW cũng không có xe đạp, chúng tôi đi tàu hỏa, đến một ngôi làng, trong làng có những cánh đồng hoa hướng dương rộng lớn.
Một điều đáng tiếc là, tôi chưa hẹn trước với hoa hướng dương. Thời gian chúng tôi đi đến đó không phải mùa hoa hướng dương nở rộ.
Nhưng ngày hôm đó, ánh nắng mặt trời rất dồi dào, đồng ruộng xung quanh rất rộng lớn, cơn gió mang theo cả mùi hương của đất và mùi thơm của lá xanh, thoang thoảng đâu đây, phía xa xa còn có một mặt hồ nhỏ, mặt trời đang tắm rửa trên mặt hồ trong vắt đó.
Tôi nói nước chanh chua chua ngọt ngọt rất ngon; tôi nói được ngồi trong xe BMW ngắm
phong cảnh đúng là mơ ước của bất kỳ cô gái nào; tôi nói cô gái đứng trong cánh đồng hoa hướng dương thật hạnh phúc; tôi nói trong cuộc đời này phải đến Tây Tạng một lần... Bất cứ lời nói vụn vặt nào của tôi thời tuổi trẻ, An Lương đều ghi nhớ trong lòng.
Tôi bỗng nhớ ra một chuyện, bèn hỏi An Lương - người đang đứng cạnh tôi, nhắm mắt đón gió: “Hôm đó, tại sao anh lại trực tiếp cầu hôn với em? Anh chưa từng theo đuổi em mà!” Ý của tôi là tôi và cậu ấy còn chưa coi nhau là người yêu.
An Lương lại nói một cách nghiêm túc: “Năm năm trước, anh đã từng theo đuổi em rồi. Em quên rồi sao?”.
Tôi làm sao có thể quên được, lần đầu tiên trong đời, tôi chính thức hẹn họ với người khác, sau khi xem phim xong, dưới ánh đèn đường yếu ớt, chàng thiếu niên mười bảy tuổi phong độ ngời ngời đó, đã chân thành nói với tôi “Cậu có muốn làm bạn gái tớ không?”.
Tôi làm sao có thể quên được. Đó là sự bắt đầu cho mối tình đầu của tôi mà. Tôi vẫn còn nhớ, cậu ấy có một đôi mắt lá răm mê hoặc, cậu ấy đặc biệt thích cười, cậu ấy thích đá bóng, cậu ấy chạy trông vô cùng đẹp trai.
Bên cạnh chỉ là một dải lá cây hoa hướng dương xanh ngắt, cây hướng dương vẫn còn chưa
để lộ những khuôn mặt cười tròn xoe béo mập. Những cây hoa chưa cười, nhưng tôi lại đang cười.
Cuối cùng, tôi đã không còn nghĩ tới Alawn nữa.
Rất lâu trước đây, tôi đã từng nói với An Lương rằng, tôi xăm tên của Alawn ở phía sau lưng. Mặc dù có thể xóa đi được nhưng khi xóa đi còn đau hơn lúc xăm hàng trăm lần, vì vậy tôi mãi mãi không muốn xóa nó đi. Lúc đó, đôi mắt của cậu ấy tối lại, không nói gì cả.
Nhưng ngay cả tình cảm khắc cốt ghi tâm suốt hai mươi hai năm còn có thể dễ dàng buông tay, đừng nói tới một vết xăm mình hời hợt.
Dù sâu sắc, dù quả cảm đến mấy, cũng có thể xóa hết được.
Vậy là, một mình tôi đi đến cửa hiệu xăm mình, xóa bỏ vết xăm có tên của Alawn đi.
Quả nhiên là rất đau, đau vô cùng. Nhưng tôi không khóc, âm thầm chịu đựng. Từng nét từng nét chữ trong tên của cậu ấy dần dần mất đi trên da thịt tôi. Hai mươi hai năm trôi qua, hoa nở rồi hoa tàn, trăng tròn rồi trăng khuyết. Khi còn nhỏ, chưa hiểu biết gì, thời niên thiếu vô lo vô nghĩ, tuổi dậy thì trong sáng ưu phiền, sau khi trưởng thành rồi lại khắc cốt tương tư. Cũng từng lang thang không chốn nương thân, cũng từng nắm tay không nói một lời.
Nỗi đau khi xóa vết xăm trên mình, làm sao có thể so sánh với lúc này - cậu ấy sau khi đã bám rễ sâu trong linh hồn tôi, chiếm cứ vững chắc suốt hai mươi hai năm, vui vẻ chạy đến, lạnh
lùng ra đi...
Sau đó, tôi cũng học được việc lười biếng nằm trong lòng An Lương nũng nịu, đòi cậu ấy cho ăn kẹo mềm vị chanh; sau đó, tôi cũng học được việc chuyện tâm nấu cho An Lương một bữa cơm tối; sau đó, tôi cũng giới thiệu với mọi người rằng, “Đây là An Lương, bạn trai tôi.”
Tôi còn đưa An Lương đến thăm trường mẫu giáo của tôi hồi nhỏ, nơi đó sắp bị dỡ bỏ, bức tường ngày xưa vốn được vẽ những hình thù ngộ nghĩnh nay đã mờ nhạt chỉ còn lại vài đốm màu nho nhỏ. An Lương lại có thể đứng ngây ra nhìn bãi đất đó rất lâu, có vẻ còn thân tình hơn cả tôi.
Tôi thường vuốt ve đôi lông mày thanh tú của cậu ấy, hỏi: “Tại sao anh luôn giữ dáng vẻ lạnh lùng như vậy? Chẳng hồn nhiên sống động gì cả! Giống như một ông già bảy, tám mươi tuổi ấy, vì vậy trước đây em mới mãi mà không thích anh được”.
“Bố của anh thường như vậy.” An Lương nói.
Sau đó, An Lương mới kể cho tôi nghe về gia cảnh của cậu ấy.
An Lương được sinh ra trong một gia đình xã hội đen. Cậu ấy nói đến đó, tôi bèn cười hic hic. Bởi vì trong tâm trí tôi, trong thế giới hòa bình này, xã hội đen chính là những tên lang thang độ tuổi học sinh trung học, miệng ngậm điếu thuốc, người đầy hình xăm, đứng ở quán bi a hay sân trượt băng để thu phí bảo hộ của những học sinh tiểu học. An Lương hỏi tôi tại sao lại cười, tôi nói về những tưởng tượng trong lòng tôi. Nhưng cậu ấy lại nghiêm nét mặt lại, tôi cảm thấy không phục, hét lên: “Chẳng lẽ lại giống đám xã hội đen cầm súng bắn giết, tham ô buôn lậâu như trong vô tuyến hay sao?”.
An Lương lại khe khẽ gật đầu. Tôi sợ đến nỗi sắc mặt tái nhợt, không dám nhiều lời, nghiêm túc lắng nghe An Lương kể lại.
Bố của An Lương là ông trùm xã hội đen ở vùng này, khống chế toàn bộ quán bar, sòng bạc,
hộp đêm thậm chí cả quán massage lớn nhỏ trong thành phố, có công ty chính thống, cũng có cả bè đảng phi pháp. Từ nhỏ, bố An Lương đã quản giáo cậu rất nghiêm khắc, chưa hề cười với cậu ấy, chỉ dạy cậu ấy cách cướp đoạt những thứ mà mình muốn. Nhưng từ cái tên mà
bố cậu ấy đặt cho cậu ấy, có thể đoán ra, người bố không muốn con trai mình đi theo vết xe cũ. Cho nên để cậu ấy học ở trường bình thường, sống một cuộc sống của một học sinh bình thường. Mẹ cậu ấy là một phụ nữ dịu dàng xinh đẹp, nhưng không may đã mất đi khi cậu ấy còn rất nhỏ. Năm An Lương mười bảy tuổi, bố An Lương trong lúc thực hiện một phi vụ buôn bán hàng cấm ở Việt Nam, đối phương muốn hủy ước, vậy là hai bên xảy ra một trận giao chiến kịch liệt. Bố An Lương đã nỗ lực chống chọi, chỉ hiềm là đối phương lực lượng mạnh, phía bên này lực lượng lại mỏng. Trong lúc trốn chạy, bố An Lương trúng đạn, bị thương ở cả hai chân, khó mà giữ được tính mạng. Rất may đã được một thuộc hạ dốc lòng liều chết ứng cứu mới bảo toàn được mạng sống. Nhưng cũng từ đó, đôi chân bị tàn phế. Người bố ở tuổi trung tuần, cơ thể bị tàn phế, nhìn khuôn mặt non trẻ của con trai mới nhận
ra con mình thiếu thốn sự quan tâm, vậy là tình phụ tử trào dâng trong huyết quản. Thêm vào đó, con người khi tuổi càng cao càng khát vọng về những niềm hạnh phúc bình dị trong cuộc
đời. Cuối cùng đã nhường lại ngôi vị cao nhất, rửa tay gác kiếm. Người đàn ông đã liều chết để cứu bố An Lương chính là bố của người bạn gái đầu đời của An Lương. An Lương luônmột lòng biết ơn ân nhân cứu mạng của bố mình, vừa hay lúc ấy hai gia đình qua lại rất thân thiết, con gái của ân nhân cứu mạng lại dần để ý tới An Lương. Để báo đáp gia đình họ, An Lương bèn nhận lời hẹn hò với cô ấy.
Tôi tròn mắt cứng lưỡi nghe An Lương kể lại về hàng loạt chuyện về thân thế ly kỳ của mình, thật giống như một bộ phim truyền hình nhiều tập, phải rất lâu sau đó mới hồi tâm lại, lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Trước đây, tôi chỉ biết gia cảnh nhà An Lương chắc chắn không kém, hơn nữa tôi còn nhất định cho rằng, người lái chiếc BMW kia chắc chắn rất hay khoe khoang sự giàu có. Giờ đây mới biết rằng, cậu ấy đã quá nhún nhường rồi. Tôi ngây người ra hỏi: “Vậy, bố anh hiện giờ đang làm gì?” Chắc không phải vẫn buôn bán hàng cấm đấy chứ.
“Làm ăn chính đáng.” An Lương tỏ ra rất điềm tĩnh.
“Ờ.” An Lương đã nói như vậy thì không thể là giả được. Sau đó, tôi làm điệu bộ vô cùng cung kính cảm phục, khom người bái lạy An Lương: “Ngôi vị quý báu của bố anh lẽ ra đã phải nhường cho anh rồi chứ! Hóa ra anh chính là vị đại ca trong truyền thuyết, A! A! Đại ca, đại ca! Tiểu nhân có mắt mà không nhìn thấy thái sơn, đã mạo phạm đến đại ca, rất mong đại ca trách phạt, tốt nhất là nên thả người vô tội”.
An Lương cười, bẹo má tôi, nói tôi tinh nghịch, cậâu ấy nói: “Không thả, cả đời này cũng không thả”.
“Nếu như tiểu nhân vượt ngục, An đại ca liệu có bắn chết tiểu nhân không?” Tôi cố làm ra vẻ sợ hãi, cuộn tròn trong lòng An Lương. An Lương nói, bên cạnh cậu ấy là thành lũy, không phải ngục tù. Sau đó, An Lương ôm tôi vào lòng, cười nói: “Lạc Lạc, em thật thích làm trò. Nhưng anh thích em hoạt bát hồn nhiên như thế, đó mới là bản tính của em, đúng không?”.
Được đại ca biểu dương, tôi thấy mình chưa có gì xuất sắc bèn đỏ bừng cả mặt.
Tôi có thể coi như đã hiểu được vì sao An Lương lại trưởng thành hơn những bạn học khác rồi. Trước đây, tôi thường cảm thấy cậu ấy không nói cười tùy tiện, chỉ số EQ quá thấp, giả bộ lạnh lùng, giả bộ thâm trầm, giờ đây mới hiểu được rằng, cậu ấy vốn đã không có tuổi thơ, không có một gia đình trọn vẹn, thậm chí khi còn nhỏ, ngay đến một người yêu thương chăm sóc cậu ấy cũng không có.
Cậu ấy chưa từng cảm nhận được sự ấm áp của gia đình, làm gì còn lý do để cười nữa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy thương An Lương vô cùng. Vậy là, tôi thề rằng mình sẽ đối xử với cậu ấy thật tốt. Lần này, đến lượt An Lương cảm thấy xấu hổ, cậu ấy gãi gãi đầu, nói: “Bây giờ em đã quá tốt rồi mà.”
“Có thật không? Em không cần phải thay đổi gì nữa à?”
“Anh không muốn em thay đổi vì anh, chỉ cần em sống thật hạnh phúc là anh đã cảm thấy vui vẻ rồi.” An Lương nói những lời chân thành từ tận đáy lòng. Câu nói này tôi đã nghe cậu ấy nói rất nhiều lần rồi, chỉ là tận bây giờ tôi mới dần dần hiểu hết được ý nghĩ của câu nói đó, cảm thấy cảm động vô cùng.
Tôi có thể tưởng tượng được một đứa trẻ, để cứu vãn người cha đang lạc đường, cứu vãn tình yêu thương của bố, đã phải chịu đựng những việc vượt quá tuổi tác của mình. Nửa phần đời trước đây của cậu ấy đã quen sống vì người khác, chưa từng nhận được sự quan tâm yêu mến của ai, cậu ấy đã quen với điều đó rồi.
Nghĩ đến tuổi thơ đáng thương của An Lương, nghĩ lại những ưu sầu làm bộ làm tịch của mình trước đây, cảm thấy sao mà buồn cười, sao mà ấu trĩ đến thế.
Nhìn vào đôi mắt lá răm đầy lôi cuốn của An Lương, thầm nghĩ mẹ của cậu ấy chắc chắn rất xinh đẹp, vậy là tôi liền hỏi, anh có nhớ mẹ không.
An Lương chỉ trả lời tôi bằng một chứ: “Nhớ”. Ngắn gọn, bất đắc dĩ, lộ rõ vẻ buồn rầu đau khổ.
Tôi lập tức nhận thức được rằng, mình đã hỏi một câu hỏi ngu xuẩn biết bao. Để làm dịu bầu không khí, tôi nũng nịu ôm lấy cổ cậu ấy, chủ động hiến dâng đôi môi của mình. An Lương lập tức ôm ghì lấy tôi, thận trọng như đang bảo vệ một món đồ bằng sứ dễ vỡ, sau đó, cậu ấy nói lời ngọt ngào ấy lần duy nhất trong đời: “Lạc Lạc, bây giờ em là thứ quý giá nhất trong cuộc đời anh.”
Làm gì có người đàn ông nào gọi bạn gái của mình là “thứ”, tôi thì thầm không hài lòng, quả nhiên ngọn lửa tình của cậu ấy lại được dịp bùng cháy. Sau đó tôi nhắm mắt lại, giống như một con thú nhỏ chậm chạp rục rịch, lăn lộn trong lòng cậu ấy.
Lời kết
Tôi thường nói, nếu An Lương sinh ra vào thời kỳ loạn lạc, dựa vào bản lĩnh kiên định, sắt đá mà cậu ấy dùng để theo đuổi tôi đó, chắc chắn sẽ gây dựng được sự nghiệp lớn.
Hai năm gần đây, cho dù thời tiết thay đổi như thế nào, cậu ấy vẫn luôn mang theo chiếc nhẫn bên mình, chỉ đợi tôi gật đầu.
Từ mười bảy tuổi cho tới hai mươi tư tuổi, bảy năm trôi qua, nói dài thì chưa thật là dài, nói ngắn, chắc chắn cũng không ngắn rồi. An Lương chưa bao giờ thể hiện thái độ đầu rơi máu
chảy, coi thường cái chết vì tình yêu, không có sự giày vò liên hồi giữa yêu rồi hận, hận rồi yêu. Không bao giờ định dùng bản thân mình để thử che phủ quá khứ lộn xộn vô cùng của tôi, cũng giành cho tôi một không gian để tôi xóa hết mọi nín nhịn hay những hối hận đã qua trong lòng.
Cậu ấy chỉ mang trong mình cảm giác sứ mệnh, long trọng mà nghiêm trang đi bên cuộc đời
tôi, không mưu cầu huy hoàng, không mong đợi thành quả. Cậu ấy chỉ lặng lẽ túc trực bên cạnh tôi, vật mềm mại thường không phát ra tiếng động, dòng nước nhỏ thường chảy rất dài.
Việc thô lỗ nhất mà cậu ấy từng làm đó là trong cái đêm tôi uống say đó, lôi tôi ra khỏi tay của kẻ đồng tính, đưa tôi về nhà.
Những ngày tháng còn lại khác đều trôi qua một cách tầm thường như vậy, không có gì đặc biệt, không có gì ngạc nhiên nguy hiểm. Còn trái tim thanh xuân phản nghịch của tôi lại làm quen, mặc nhận, hòa nhập và tuân theo cái tầm thường đó. Hết năm này qua năm khác, không thể phân tách ra được.
Những ngày tháng mới lạ khác nhau trong cuộc sống trôi qua, nhân sinh luôn luôn là vô tận, những thứ có kết cục chỉ là câu chuyện.
Mùa xuân đến rồi, hoa táo đã nở trắng xóa, tình yêu của tôi cũng đã nở rộ, không chút nhàm chán, vô cùng trách nhiệm.
Mùa xuân của năm nay thật dài, khiến tôi vừa xinh đẹp lại vừa u buồn. Tôi đã chuẩn bị sẵn những bộ váy mùa hè đẹp đẽ từ lâu rồi, phiền một nỗi mùa xuân cứ dùng dằng chẳng chịu ra đi, lại khiến mùa hè chần chừ không dám mạo muội đến sớm.
Trong tiết trời xuân bất tận đó, tôi và An Lương tay trong tay bước lên thảm đỏ của lễ đường. Chiếc nhẫn mà An Lương luôn mang theo bên mình suốt hai năm, cuối cùng cũng đã được nhìn thấy mặt trời, đeo vào ngón tay áp út của nữ chủ nhân. Cảm ơn An Lương, trong dòng người ồn ào huyên náo, đã tìm thấy một cô gái lặng lẽ như tôi, đồng thời luôn ở bên tôi, trân trọng tôi.
An Lương, được quen biết anh thật tốt biết bao.
Đêm tân hôn, Duyệt Duyệt để chồng ở nhà chăm sóc con trai, cô ấy một mình đến chỗ tôi, kéo tôi lại hàn huyên rất lâu.
Cô ấy hỏi tôi, cậu có biết thế nào là duyên, thế nào là phận không.
Tôi nghĩ một lát rồi nói không biết.
Vậy là Duyệt Duyệt nói một cách chân thành, tình cảm sâu đậm với Alawn và Leo đó là duyên. Từ nay về sau, tôi phải an phận bên cạnh An Lương, vì cậu ấy mà tự vạch ra giới hạn cho mình. Những chuyện đã qua, chỉ là bóng ngược khi sóng tan trong hồ nước mà thôi.
Tôi nghiền ngẫm những lời vàng ngọc của người đi trước Duyệt Duyệt, cảm thấy vô cùng có ích.
Duyệt Duyệt níu lấy tay tôi, bắt đầu nhớ lại thời sinh viên, nhớ lại lúc tôi tiễn cô ấy về nhà chồống, giống như một người của bên nhà gái, lưu luyến không nỡ rời cô dâu. Mãi tới khi chú rể đứng đợi mãi ngoài cửa, chuyển từ trạng thái vui vẻ hăm hở sang trạng thái hùng hổ mài dao giết người, Duyệt Duyệt mới chịu ngậm ngùi giao tôi cho An Lương.
Đêm đầu tiên của tôi, đau đến mức chỉ biết khóc, máu ra nhiều đến nỗi An Lương không biết
phải làm thế nào. Sau đó, một đại lão gia như cậu ấy, lại cảm động ôm chầm lấy tôi, vừa khóc vừa cười. Đại khái là, cậu ấy không thể ngờ rằng tôi vẫn là một trinh nữ. Tôi – trong những ngày tháng nổi loạn của tuổi trẻ, trong tư tưởng phản nghịch, cởi mở lại vẫn giữ được cái quý giá nhất cho đêm đầu tiên. Thực ra, đây chỉ là ngoài ý muốn. Tư tưởng của tôi vốn không bảo thủ, cũng không cố ý muốn giữ lại cái trinh tiết cho tới tận đêm tân hôn cho chồng của mình, tôi đã từng muốn hiến dâng thân thể của mình cho Alawn. Đương nhiên, đây là một bí mật mà tôi đã chôn cất tận sâu thẳm đáy lòng của mình.
Nhưng An Lương lại không nghĩ như vậy, cậu ấy ôm lấy tôi, nước mắt vòng quanh thề rằng sẽ đối xử tốt với tôi suốt cả cuộc đời.
Duyệt Duyệt nói, từ lâu cô ấy đã biết An Lương là một người tốt, chắc chắn tôi sẽ lấy An Lương. Nếu sớm nghe theo cô ấy, tôi đã không phải đi đường vòng xa như vậy.
Nhưng con người, thường phải đi qua những con đường vòng lớn nhỏ đó mới học hỏi được, qua cảm xúc mà hiểu ra được, thấm thía được, phát hiện được.
Trong lúc dọn đồ chuyển nhà, chiếc hộp dùng để đựng đồ trang sức từ thời học sinh mà tôi đã tìm rất lâu và cũng không nhớ nổi đã để ở đâu rơi ra ngoài. Tôi nín thở mở nó ra, bàn tay khẽ run rẩy. Tôi biết, trong đó có hai món đồ vẫn đang nằm lặng lẽ, đó là hai chiếc chìa khóa mở ra hai đoạn ký ức của tôi, bày ra hai quãng đời huy hoàng xưa cũ, chờ đợi tôi khi về già sẽ chầm chậm đi thu nhặt lại. Những hồi ức đó, giống như một đóa hoa, nở rộ ở nơi rõ ràng nhất trong não bộ, hoặc sáng lạn xinh xắn, hoặc thê lương ảm đạm, vĩnh viễn không tàn phai, không bạc màu.
Một chiếc khuy áo bằng gỗ, một chiếc khuyên tai gắn kim cương.
Dù rằng ký ức đã trở nên vụn vặt, nhưng hai đồ vật này lại có thể dễ dàng kích động tới từng nỗi nhớ nhung của tôi.
Tôi có thể quên hết những ngày tháng không vẻ vang gì khi sống chung với Leo, cũng có thể quên hết sự sa đọa khi uống say trong quán rượu, quên hết sự cuồng si mê muội trong đêm hôm ấy. Nhưng tôi mãi mãi ghi nhớ khuôn mặt của tôi sau giấc ngủ trưa của cái ngày năm tôi mười tám tuổi ấy, tôi đã ngồi khâu chiếc khuy áo bằng gỗ cho Leo, thuần khiết như ánh nắng chiếu qua cửa sổ lúc bấy giờ. Nếu nói tôi hoài niệm một anh chàng Leo mắt xanh tóc vàng, không bằng nói rằng tôi đang hoài niệm thời thanh xuân tươi đẹp cùng Leo đi tìm kiếm sự lãng mạn. Còn cả đôi mắt mờ mịt mông lung mà lúng túng đi dò tìm những điều mình chưa biết của tôi nữa.
Chiếc khuyên tai gắn kim cương vẫn phát ra những tia sáng khiến người ta chói mắt. Alawn khi vứt bỏ chiếc khuyên tai này đã nói rằng, “Không có thứ gì vĩnh hằng, kim cương cũng không thể vĩnh hằng.” Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa có cơ hội để nói với cậu ấy rằng, tôi đã tìm thấy chiếc khuyên tai gắn kim cương rồi, nó vẫn đang lấp lánh phát sáng và sẽ tỏa sáng mãi mãi, cũng giống như tình cảm giữa tôi và cậu ấy vậy. Cho dù bao nhiêu năm sau này, khi tôi già rồi chết đi, nhắm mắt lại, nền trời cam đỏ đó vẫn chậm rãi lướt qua đầu tôi một cách rõ ràng – cậu ấy đứng trong ráng chiều tà dịu dàng, thần sắc trẻ trung phơi phới, một chân oai vệ giẫm lên trên trái bóng, khuôn mặt trẻ trung mà sống động, có vài giọt mồ hôi nhạt chảy xuống, vậy là cậu ấy kéo vạt áo lên lau loạn xạ, mặt trời kéo bóng cậu ấy dài mãi, dài mãi. Còn chiếc khuyên tai gắn kim cương của cậu ấy, cứ lấp lánh phát sáng bên tai trái…
Bất cứ lúc nào, cho dù tôi là một thiếu nữ phất phơ tà áo trắng bay hay là một bà lão với mái tóc bạc phơ, trong tim tôi vẫn luôn có một mảnh đất yên tĩnh ấm áp, dùng để lắng đọng quá khứ thuần khiết như trời xanh mây trắng và nước chanh đó. Là ngọt ngào, là thơ mộng, là đau khổ, là cứ nghĩ đến liền rơi nước mắt. Chỉ là, rất lâu sau này, liệu còn có ai gọi tôi là phù thủy Gà Mên không?
Đó là từ rất nhiều năm, rất nhiều năm trước đây rồi, dường như từ kiếp trước, hồi đó bầu trời cao vời vợi, mây trắng bay xa xăm. Hồi ấy, cậu ấy gọi tôi là phù thủy Gà Mên, tôi liền gọi cậu ấy là Đồ Đểu. Sau đó, trên sân bay vào buổi sáng sớm ngày ôm ấy, chàng trai đó, chiếc mũ lưỡi trai trắng đội lệch che bớt mái tóc màu hung vàng rối rắm, đôi mắt trong sáng, tươi đẹp, viên kim cương trên khuyên tai không ngừng lấp lánh, cậu ấy dùng chất giọng bắt đầu trở nên nam tính của mình, thận trọng trao cho tôi một lời nói đầy mê hoặc: Phù thủy Gà Mên, chúng mình trăm năm đầu bạc có được không.
Phù thủy Gà Mên nói, được thôi.
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
freezeheart_6200 – yenioe11 – nangmualachuyencuatroi
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)